Chia sẻ: 
14/06/2021 09:31

Thứ Hai tuần 10 Thường Niên

"Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó".

 

Tin Mừng: Mt 5, 1-12

Khi ấy, Chúa Giêsu thấy đoàn lũ đông đảo, Người đi lên núi, và lúc Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần Người. Bấy giờ Người mở miệng dạy họ rằng: "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. - Phúc cho những ai hiền lành, vì họ sẽ được Ðất Nước làm cơ nghiệp. - Phúc cho những ai đau buồn, vì họ sẽ được ủi an. - Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả. - Phúc cho những ai hay thương xót người, vì họ sẽ được xót thương. - Phúc cho những ai có lòng trong sạch, vì họ sẽ được nhìn xem Thiên Chúa. - Phúc cho những ai ăn ở thuận hoà, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa. - Phúc cho những ai bị bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời là của họ".

"Phúc cho các con khi người ta ghen ghét, bách hại các con, và bởi ghét Thầy, họ vu khống cho các con mọi điều gian ác. Các con hãy vui mừng hân hoan, vì phần thưởng của các con sẽ trọng đại ở trên trời. Người ta cũng đã từng bắt bớ các tiên tri trước các con như vậy".

 

Suy niệm 1: Phúc thay - Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu SJ.

Đức Đạt-lai Lạt-ma, vào mùa thu năm 1994 tại thủ đô nước Anh, 
đã được mời chia sẻ về giáo huấn của Chúa Giêsu trong các sách Tin Mừng. 
Một trong những bài chia sẻ đầu tiên là về các Mối Phúc. 
Theo ngài các Mối Phúc dường như nói về nghiệp (karma), về nhân quả. 
“Nếu bạn hành động như thế, thì bạn sẽ chịu hậu quả như thế. 
Nếu bạn không hành động như thế, thì bạn cũng chẳng chịu hậu quả như thế. 
Vậy rõ ràng nguyên lý nhân quả nằm ở trong giáo huấn của các Mối Phúc.” 
Thật ra các Mối Phúc của Kitô giáo lại không bắt nguồn từ nguyên lý nhân quả, 
dù mới đọc ta có cảm tưởng như vậy. 
Các Mối Phúc bắt đầu bằng chữ “Phúc thay”, 
kế đến nói lên ai là người được hưởng phúc ấy, 
cuối cùng nêu lên lý do hay nền tảng của hạnh phúc ấy bằng chữ “vì”. 
Hạnh phúc đích thật của người Kitô hữu không phải là “quả” tự nhiên 
do “nhân” là việc lành phúc đức của họ. 
Dù sống tốt đến mấy đi nữa, thì “nhân” ấy cũng không thể sinh “quả” ấy được. 
“Quả” hạnh phúc của Kitô giáo là quà tặng lớn của Thiên Chúa cho con người. 
Điều này được diễn tả qua những lối dùng động từ ở thể thụ động: 
“sẽ được ủi an, sẽ được no thỏa, sẽ được xót thương, sẽ được gọi.” 
Trước khi giảng về các Mối Phúc, Đức Giêsu đã loan báo: 
“Hãy hối cải, vì Nước Trời đã gần bên” (Mt 4, 17). 
Nước Trời người Do thái mong đợi đã đến với sự hiện diện của Đức Giêsu. 
Quà tặng nhưng không của Thiên Chúa đã được trao ban, 
chẳng phải do công sức của con người. 
Hãy mở lòng ra đón lấy Nước ấy bằng cách hối cải, bỏ đời sống cũ. 
Nhưng hơn thế nữa, còn phải đón nhận một lối sống mới cho phù hợp. 
Bài giảng trên Núi, và các Mối Phúc, cho thấy hướng sống 
của những ai muốn đón nhận quà tặng Nước Trời với bao hạnh phúc kèm theo. 
Để nhận được quà tặng vô giá ấy, để được hưởng hạnh phúc vô bờ ấy, 
cần cung kính đưa hai tay để đón lấy với lòng khiêm hạ và biết ơn. 
Sống theo các Mối Phúc là có thái độ trân trọng cung kính ấy. 
Không đưa tay thì cũng chẳng được quà. 
Nhưng không phải cứ đưa tay là có quà, 
nếu Thiên Chúa không muốn cho trước khi ta xin. 
Kitô giáo không dựa trên nguyên lý nhân quả. 
Cung kính đưa tay là sống nghèo khó, cậy dựa vào Thiên Chúa, 
là hiền lành, là chịu sầu khổ, chịu bách hại vì Đức Kitô. 
Cung kính đưa tay là có lòng thương xót, có tinh thần xây dựng hòa bình, 
là làm tất cả mọi sự với quả tim trong sáng, không chút vẩn đục. 
Khi làm như thế chúng ta hy vọng được chạm đến Thiên Chúa, 
thậm chí được nếm biết Nước Trời ngay từ đời này (cc. 3. 10). 
Chúng ta có thể viết thêm những mối phúc mới 
qua những kinh nghiệm trong cuộc đời Kitô hữu. 
Có bao niềm vui lớn nhỏ mỗi ngày mà ta cảm nhận khi sống lời dạy của Giêsu. 
Chỉ khi ấy ta mói thấy thật sự lời của Ngài là Tin Mừng. 

Lạy Chúa Giêsu thương mến, 
xin ban cho chúng con 
tỏa lan hương thơm của Chúa 
đến mọi nơi chúng con đi. 
Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con 
bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. 
Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con 
để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. 
Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, 
để những người chúng con tiếp xúc 
cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. 
Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, 
không phải bằng lời nói suông, 
nhưng bằng cuộc sống chứng tá, 
và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. Amen. 
(Mẹ Têrêxa Calcutta) 

 

Suy Niệm 2: Tám mối phúc thật

Có lẽ người Công giáo nào cũng thuộc nằm lòng Tám Mối Phúc Thật, và có lẽ nhiều người ngoài Kitô giáo cũng đã ít hay nhiều nghe nói đến bản Hiến Chương này. Cũng giống như bản thân Chúa Giêsu, Tám Mối Phúc Thật là dấu chỉ của sự mâu thuẫn. Nếu đối với người Công giáo và nhiều bậc vĩ nhân của nhân loại, Tám Mối Phúc Thật là nguồn cảm hứng cho cuộc sống cao thượng; thì đối với một số người khác, như triết gia Nietzsch chẳng hạn, Tám Mối Phúc Thật chỉ là một lô những đức tính của loài vật, bởi vì chỉ có loài vật mới cúi đầu khuất phục và nhẫn nhục chịu đựng; đối với một số khác nữa, Tám Mối Phúc Thật chỉ là những lời hứa hão về một thứ thiên đàng ảo tưởng, hay nói theo ngôn ngữ của Karl Marx, đó chỉ là thuốc phiện ru ngủ quần chúng. Vậy đâu là tinh thần đích thực của Tám Mối Phúc Thật?

Bản văn Giáo Hội cho chúng ta lắng nghe hôm nay là của thánh Mátthêu. Chúa Giêsu chỉ công bố Tám Mối Phúc Thật một lần duy nhất, nhưng được hai tác giả ghi lại; dĩ nhiên, với hai cái nhìn khác nhau nhưng bổ túc cho nhau. Cái nhìn của Luca có tính xã hội: Luca giải thích các mối phúc thật dưới ánh sáng giáo huấn của Chúa Giêsu về nghèo khó và việc sử dụng của cải trần thế, để từ đó đề cao giai cấp những người nghèo khổ trong xã hội; với Luca, những người nghèo thật sự là những tín hữu tiên khởi của Giáo Hội. Trái lại, Mátthêu quan tâm đến khía cạnh luân lý nhiều hơn: nếu Luca đề cao giai cấp cùng khổ, thì Mátthêu nhấn mạnh đến tinh thần nghèo khó: "Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó", do đó theo Mátthêu, con người vào được Nước Trời không đương nhiên vì tình trạng nghèo khó, mà vì thái độ tinh thần của họ; cũng trong cái nhìn ấy, Mátthêu đáng giá về sự đói khát: nếu Luca nói đến những nạn nhân của bất công, tức những người đói khát cơm bánh thực sự, thì Mátthêu lại nhấn mạnh đến sự đói khát công lý nơi con người.

Tổng hợp hai cái nhìn khác nhau của Luca và Mátthêu, chúng ta có thể đưa ra bài học về sứ mệnh của Giáo Hội trong trần thế. Nước Chúa mà Giáo Hội loan báo không chỉ là Thiên Ðàng trong thế giới mai hậu, nhưng đang đến trong cuộc sống tại thế này, qua những giá trị như công bình bác ái, huynh đệ, liên đới. Chính trong những thực tại trần thế mà con người phải tìm kiếm và xây dựng những thực tại Nước Trời.

Niềm tin của người Kitô hữu thiết yếu hướng về cuộc sống mai hậu: mọi nỗ lực của người Kitô hữu nhằm minh chứng cho mọi người về tính cách siêu việt của cuộc sống và định mệnh của con người. Sống trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian, sống giữa thế gian, nhưng con người phải nhìn về Quê hương đích thực là Thiên Quốc. Tuy nhiên, niềm tin hướng về cuộc sống mai hậu ấy không thể làm cho người Kitô hữu xao lãng với những nhiệm vụ trần thế của họ. Họ phải xác tín rằng chính qua những thực tại trần thế, họ mới có thể gặp được những giá trị của Nước Trời; chính qua những thực tại trần thế, họ mới đạt được cứu cánh vĩnh cửu của họ. Ðây quả là một thách đố lớn lao cho người Kitô hữu ở mọi thời.

Một trong những nguyên nhân khiến người Kitô hữu bị bách hại là bởi vì con người không hiểu được sứ điệp của Tin Mừng. Chúa Giêsu đã bị chống đối và cuối cùng bị treo trên Thập giá là bởi vì những người đương thời không hiểu được sứ điệp và con người của Ngài. Ðó cũng chính là thân phận của người Kitô hữu trong trần thế, nhưng chính khi bị bách hại mà vẫn kiên trì trong niềm tin của mình, người Kitô hữu mới thể hiện được ý nghĩa sứ điệp của Tin Mừng.

Chúa Giêsu đã chẳng nói: khi nào Ta bị giương cao, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta sao? Ðó là sức mạnh và nét hấp dẫn của Tám Mối Phúc Thật mà Chúa Giêsu không chỉ rao giảng, mà còn thể hiện cho đến cùng. Chết để cho sứ điệp Tin Mừng được đón nhận, đó là nghịch lý của Tám Mối Phúc Thật. Cái chết ấy được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày của người Kitô hữu, nghĩa là hăng say phục vụ, sống quảng đại, liêm khiết, sống bác ái yêu thương, ngay cả chấp nhận những thua thiệt miễn là không đánh mất niềm tin của mình.

 

Suy niệm 3: Chương trình sống mới

Tin mừng hôm nay là những lời mở đầu cho bài giảng trên núi của Chúa Giêsu. Thánh Matthêu trình bày Chúa Giêsu như một Môsê mới. Trong Cựu ước, Môsê lên núi Sinai lãnh nhận mười điều răn của Chúa để truyền lại cho dân chúng, giờ đây trong Tân ước, Chúa Giêsu lên núi với tư cách một vị Thầy, Ngài công bố hiến chương Nước Trời, công bố luật mới cho tất cả những ai muốn vào Nước Chúa.

Tám mối phúc thật là chương trình sống mới cho các môn đệ Chúa. Chúa biết rõ tâm hồn con người đang khao khát hạnh phúc, và Ngài trình bày con đường phải đi theo để đạt tới hạnh phúc. Tuy nhiên, chúng ta thấy có cái gì nghịch lại khao khát hạnh phúc của con người như được trình bày trong Tin mừng hôm nay. Thường tình, con người tìm kiếm hạnh phúc nơi của cải giầu sang, nhưng Chúa Giêsu lại tuyên bố: "Phúc cho những ai có tâm hồn nghèo khó ". Những tiêu chuẩn Chúa Giêsu đưa ra để xác định hạnh phúc xem ra nghịch lại cách suy tưởng và chờ đợi nơi con người. Chúng ta dễ bị cám dỗcho rằng những lời dạy của Chúa Giêsu là một điều không tưởng, một lý thuyết ngược đời.

Quả thật, chúng ta có thể nói như vậy, nếu Chúa Giêsu không sống những gì Ngài giảng dạy. Nhưng Chúa Giêsu chính là chìa khóa để chúng ta hiểu những mối phúc thật. Việc Ngài đã sống tám mối phúc thật là bằng chứng cho thấy rằng những điều Ngài giảng dạy là có thể thực hiện được

Xin Chúa cho chúng ta hiểu các mối phúc thật Chúa đề ra. Xin cho chúng ta được sức mạnh và tin tưởng thực hành những điều Ngài dạy để đạt tới hạnh phúc đích thực.

 

Suy niệm 4: Tám mối phúc thật

Năm 1895 nhân cuộc đua xe hơi từ Chicago đến Houstin, một tờ báo xuất bản ở Hoa kỳ đã có sáng kiến in lộ trình đua xe và phân phát cho khán giả để tiện theo dõi. Từ đó, người ta nghĩ ra việc ấn hành bản đồ các đô thị, các tuyến đường liên tỉnh. Ngày nay, mỗi năm các công ty dầu lửa Hoa kỳ in và phát không trên 100 triệu bản đồ. Đi vào bất cứ đô thị nào hoặc làm bất cứ lộ trình nào, việc đầu tiên là tìm cho được bản đồ nơi mình định đến. Trên bản đồ ấy, người ta có thểå đọc được lộ trình, điều kiện những con đường ấy, cũng như dễ dàng tìm được nơi muốn đến.

Trong hành trinh đức tin: chúng ta cũng cần một bản đồ, và bản đồ ấy Chúa Giêsu đã vẽ sẵn qua tám mối phúc thật. Đó cũng là con đường Ngài đã đi qua. Ngài đã đi qua con đường nghèo khó, lớn lên trong nghèo khổ, sống với những người nghèo, Ngài đã tuyên bố: "phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó", và cuối cùng Ngài đã chết trơ trụi trên Thập giá để minh chứng cho lời rao giảng của Ngaiø. Chỉ khi nào con người trở nên trống rỗng không vương mắc gì, lúc đó con người mới được Thiên Chúa lấp đầy tâm hồn. 

Ngài đã đi qua con đường hiền lành : tự nộp mình để bị hành hạ sỉ nhục và chịu treo trên thập giá. Chúa Giêsu không hề mở miệng oán trách, trái lại đã xin Chúa Cha tha cho kẻ hành hạ mình, Ngài không ngừng mời gọi chúng ta đi theo con đường ấy  ? Hãy học cùng Ta: vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng". 

Ngài đã đi qua con đường của đau buồn : mang lấy thân phận con người. Chúa Giêsu đã cảm nghiêm thế nào là bị hiểu lầm và phản bội, bị bỏ rơi, cô đơn, nhưng chính qua con đường ấy, Ngài cho chúng ta một linh dược, đó là lòng tín thác nơi Thiên Chúa ; trong đau buồn thử thách, sức mạnh duy nhất để an ủi và nâng đỡ con người là chính Chúa. 

Ngài đã qua con đường của đói khát: Trên Thập giá, Ngài đã thốt lên : "Ta khát". Ngài đã từng đến xin nước với một người phụ nữ Samari, nỗi khao khát ấy của Chúa Giêsu đã bắt đầu bằng chính ý muốn của Thiên Chúa: mặc dù đó là chén đắng.

Ngài đã đi qua con đường xót thương : ai đã gần gũi những người nghèo khổ tội lỗi cho bằng Chúa Giêsu ? Ai đã cảm thông với những yếu đuối của con người cho bằng Chúa Giêsu ?

Ngài đã đi qua con đường của trong sạch, nghĩa là không để mình vướng mắc bất cứ tâm tình bất chính nào.

Ngài đã đi qua con đường hòa bình : trước những xỉ vả đánh đập, Ngài đã thinh lặng: trước những kẻ làm chứng gian, Ngài đã yên lặng ; như con chiên hiền lành, Ngài không có một khí giới nào trong tay; Ngài hoàn toàn trơ trụi, và đó là lý tưởng đích thực của hòa bình. Sở dĩ người ta giành dựt chém giết nhau là do lòng tham, chiến tranh do đó càng đồng nghĩa với tham lam : tâm hồn càng chất chứa tham lam, càng không có bình an.

Tất cả những con đường ấy: Chúa Giêsu đã đi qua và Ngài đã vẽ thành bản đồ cho hành trình đức tin của chúng ta, đó là bản đồ duy nhất đưa chúng ta về cõi phúc đích thực. Tất cả những con đường ấy đều là những con đường hẹp đòi hy sinh mất mát và sự chú ý cao độ.

Dấu chỉ chắc chắn để nhận ra những nẻo đường ấy chính là những mất mát thua thiệt. Mất mát thua thiệt nào cũng tạo nên thương tích: nhưng người kitô hữu không nao núng bởi vì họ tin rằng Chúa Kitô đang đồng hành với họ trong cuộc sống.

 

Chia sẻ: