A. LỜI CHÚA
Bài đọc 1 - Kn 9,13-18
Bài trích sách Khôn ngoan.
Lạy Chúa, nào có ai biết được ý định của Thiên Chúa ? Nào có ai hiểu được Đức Chúa muốn điều chi ? Chúng con vốn là loài phải chết, tư tưởng không sâu, lý luận không vững. Quả vậy, thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề. Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá đưọc, thì những gì thuộc thượng giới, có ai dò thấu nổi hay chăng ? Ý định của Chúa, nào ai biết được, nếu tự chốn cao vời, chính Ngài chẳng ban Đức Khôn Ngoan, chẳng gửi thần khí thánh ? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho biết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ Đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.
Bài đọc 2 - Plm 9b-10.12-17
Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Phi-lê-môn.
Anh Phi-lê-môn thân mến, tôi, Phao-lô, một người đã già và hơn nữa, một người đang bị tù vì Đức Ki-tô Giê-su, tôi van xin anh cho đứa con của tôi, đứa con tôn đã sinh ra trong cảnh xiềng xích, đó là Ô-nê-xi-mô, tôi xin gửi nó về cho anh; xin anh hãy đón nhận nó như người ruột thịt của tôi. Phần tôi, tôi cũng muốn giữ nó ở lại với tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi chẳng muốn làm gì mà không có sự chấp thuận của anh, kẻo việc nghĩa anh làm có vẻ miễn cưỡng, chứ không phải tự nguyện. Nó đã xa anh một thời gian, có lẽ chính là để anh được lại nó vĩnh viễn, không phải được lại một người nô lệ, nhưng thay vì một người nô lệ, thì được một người anh em rất thân mến; đối với tôi đã vậy, phương chi đối với anh lại càng thân mến hơn biết mấy, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa. Vậy, nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi.
Tin Mừng - Lc 14,25-33
Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.
Khi ấy, có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ :
“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.
“Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có hoàn thành nổi không ? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi, lại không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chế diễu mà bảo : ‘Anh ta đã khởi công xây, nhưng chẳng có sức làm cho xong việc’. Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
B. SUY NIỆM
1. Khôn ngoan đi theo Chúa _ Lm G.B Trần Văn Hào, SDB
Người xưa thường nói “Xem giỏ bỏ thóc” hoặc “Đừng vung tay quá trán”. Đó là lẽ khôn ngoan thường tình chúng ta cần phải biết, trước khi bắt tay làm bất cứ công việc gì. Hôm nay Chúa dùng hai dụ ngôn cụ thể để nhắc nhớ điều ấy: Dụ ngôn về một người khởi công xây nhà cần hoạch toán dự chi và dụ ngôn về một ông vua trước khi tham chiến phải xem lực lượng quân đội của mình ra sao. ‘Hãy liệu cơm mà gắp mắm’, là lẽ khôn ngoan ở đời. Tuy nhiên, Đức Giêsu không phải là một kinh tế gia hay một chuyên viên xây dựng. Ngài cũng không phải là người rành rẽ về binh lược nơi trận mạc. Sứ điệp Chúa muốn nhắn gửi chúng ta, là phải sống khôn ngoan theo lối bước của Tin Mừng. Ngài nhấn mạnh : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi ” (c.26-27). Cuối cùng, Chúa đưa ra kết luận chung cuộc : “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có thì không thể làm môn đệ của tôi” (c.33).
Biết mình: Khởi đầu của sự khôn ngoan.
Ngày xưa, triết gia Socrates đã dạy các học trò của ông :“Biết mình là khởi đầu của sự khôn ngoan”. Ông cắt nghĩa tiếp “Ở trên đời, chúng ta thường rơi vào ba cái dốt. Cái dốt đầu tiên là chúng ta không biết những gì cần phải biết. Cái dốt thứ hai là chúng ta tò mò muốn biết những gì không nên biết, và cái dốt cuối cùng là chúng ta cứ tưởng rằng mình đã biết những gì mình thực sự chưa biết”. Nền triết học Hy Lạp ngày xưa vạch dẫn cho chúng ta những đường nét khôn ngoan ở đời, nhưng nó vẫn không thể đi vào chiều sâu của sự khôn ngoan như Chúa Giêsu mời gọi. Chúa Giêsu từ từ khai mở con đường Thập giá để dẫn đưa chúng ta đến nguồn mạch của sự khôn ngoan đích thực. Thánh Phaolô đã viết : “Chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước đến muôn đời... Lẽ khôn ngoan ấy, không một thủ lãnh thế gian được biết, vì nếu biết họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa vinh hiển vào Thập giá” (1Cr. 2, 7-8). Ngài còn phân định rõ hơn sự khác biệt giữa khôn ngoan thế gian so với sự khôn ngoan của Tin Mừng. Vị Tông đồ dẫn giải tiếp : “Trong khi người Do Thái tìm kiếm những dấu lạ, người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái cho là ô nhục, và dân ngoại cho là điên rồ.... Cái điên rồ của Thiên Chúa thì còn hơn cái khôn ngoan của loài người (1Cr. 1, 22-25).
Như vậy, câu nói của Socrates rất đúng khi ông nhận định : “Khởi đầu của sự khôn ngoan là hỡi người, hãy tự biết mình”. Nhưng tại sao phải biết mình, biết về mình như thế nào và biết mình để làm gì, là những vấn nạn mà ông ta không thể đưa ra câu trả lời. Chỉ khi Đức Giêsu vào trần gian, tiến nhận cái chết ô nhục trên Thập giá, chân lý ấy mới từ từ được khai sáng.
Thập giá: Con đường dẫn đến khôn ngoan đích thực.
Triết gia Shaupenhauer, thế kỷ 19, đã nói với các bạn của ông : “Khi tôi chết, hãy khắc trên ngôi mộ của tôi hàng chữ : Đây là nơi yên nghỉ của một người đã chết, mà khi sống, không biết mình sống để làm gì”. Sống để làm gì và sau khi chết sẽ đi về đâu, là những câu hỏi muôn thuở mà từ trước đến nay nhiều triết gia đã suy tư mà vẫn không thể tìm ra đáp án. Chúa Giêsu đã đưa ra câu trả lời rất cụ thể và chuẩn xác qua chính cái chết của Ngài trên Thánh giá. Thập giá Đức Kitô là ẩn số vĩ đại và khó hiểu nhất, nếu chúng ta chỉ dừng lại trên bình biện thuần lý của đầu óc con người. Một Thiên Chúa cao cả lại trở nên thấp hèn, đã hạ mình xuống tận đáy bùn đen trong xã hội. Một Thiên Chúa hằng sống lại tự nguyện tiến nhận cái chết, và chết một cách tức tưởi như một tên tội phạm. Một Thiên Chúa nhân lành bị con người đối xử quá gian ác và phũ phàng. Nhưng chính nghịch lý của Thập giá lại là quyển sách ẩn chứa sự khôn ngoan cao sâu nhất. Chiêm niệm mầu nhiệm ấy, chúng ta mới dần hiểu được điều Chúa nói hôm nay : “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi được.”
Cha Gioan Cornay, một linh mục thuộc Hội Truyền giáo Paris (MEP) đã tình nguyện lên đường sang Việt Nam truyền giáo. Đi truyền giáo ngày xưa là chấp nhận ra đi vĩnh viễn không mong ngày trở về. Lúc Ngài ra ga xe lửa, bạn bè và những người thân quen đưa tiễn. Quá thương con, song thân Ngài nằm vật ra giữa đường để cản lối, nhưng Cha Cornay đã can đảm bước qua, và nhất quyết đi theo tiếng gọi của Chúa. Ngày 20 tháng 09 năm 1837, Ngài lãnh triều thiên tử đạo tại Sơn Tây, miền Bắc và là một trong 118 vị Tử đạo tại Việt Nam. (Xem thêm Hạnh tích các thánh). Ngài là một gương sáng điển hình, đã sống và thực hành điều Chúa Giêsu khuyến mời hôm nay.
Kết luận
Con đường Thập giá cùng sự từ bỏ là lối bước Chúa Giêsu đã đi qua và mời gọi chúng ta dấn bước theo Ngài. Chúng ta đã nghe đi nghe lại sứ điệp này đến độ thuộc lòng, nhưng cụ thể trong cuộc sống, chúng ta đã từ bỏ cái gì và từ bỏ như thế nào. Đây là một thách đố mà mỗi ngày chúng ta phải lập đi lập lại để nhắc nhớ, hầu trở nên môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Trong Giáo hội đã có rất nhiều mẫu gương để chúng ta noi theo. Một Cha Đamiêng đã từ bỏ mọi sự để chung hòa cuộc sống với những người cùi tại đảo Molokai. Một Cha Maximilien Kolbe đã can đảm chấp nhận chết thay cho một anh bạn tù trong trại tập trung Auswich ở Ba lan. Biết bao bạn trẻ đã từ bỏ quê hương xứ sở để lên đường dấn thân truyền giáo. Còn bạn, còn tôi, chúng ta đã đi vào sự từ bỏ và sống ơn gọi của chúng ta như thế nào?
2. Từ bỏ hết _ Lm Ant. Nguyễn Cao Siêu, SJ
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ
như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn:
chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc.
Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng.
Tắt tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình.
Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn.
Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con.
Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả,
chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền,
chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể.
Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Ðức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự,
trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất,
trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng,
nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối
khi sánh với Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Ðức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta,
đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Ðức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Ðức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài,
chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pisa.
Ðiều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Ðiều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày
thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận,
vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Ðức Giêsu,
dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Lạy Chúa Giêsu,
sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả
để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa
để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà
để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con
cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình,
ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan
để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa,
dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng
trước khi con tập sống cho Chúa
và thuộc về Chúa
thì Chúa đã sống cho con
và thuộc về con từ lâu. Amen.
3. Điều kiện để đi theo Chúa _ Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Sứ điệp Lời Chúa tuần 21 : “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp”. Chúa Giêsu đã đi con đường hẹp và Chúa cũng muốn chúng ta cùng đi với Ngài.
Nhưng làm thế nào để có thể đi trên con đường đó?
Sứ điệp Lời Chúa tuần 22 cho đến Chúa nhật áp chót của mùa thường niên, nói đến những điều kiện giúp chúng ta có thể đi trên con đường đó.
Chúa nhật 22, với điều kiện đầu tiên và cũng là điều kiện quan trọng nhất. Đó là sự khiêm nhường và đức bác ái.
Chúa nhật 23, chính là từ bỏ và vác thập giá đi theo Chúa.
1. Từ bỏ
Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình nữa.Nhiều người hỏi rằng từ bỏ như thế làm sao mà sống được ? làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình, vô nghĩa ? Vậy thì phải hiểu chữ từ bỏ theo nghĩa nào? Từ bỏ ở đây hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí lớn hơn. Người theo Chúa cần có tinh thần từ bỏ, ưu tiên chọn Chúa trên hết mọi sự, xem Chúa và việc của Chúa là quan trọng hơn cả. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, nhà cửa, ruộng vườn đều rất quý trọng, nhưng người theo Chúa chọn điều quý hơn là chính Chúa. Họ giống như người “tìm được viên ngọc quý, tìm được kho báu chôn trong ruộng, liền trở về bán tất cả để mua viên ngọc, mua thửa ruộng ấy”.
Chúa đòi buộc người theo Chúa phải từ bỏ, nghĩa là đặt tất cả dưới Người, yêu Người trên mọi sự. Đưa ra đòi hỏi này và biết đó là một chọn lựa khó khăn nên Chúa Giêsu căn dặn nên biết tính toán cẩn thận rồi mới chọn lựa dứt khoát. Muốn xây tháp cần tính toán có đủ tiền. Muốn thắng trận cần có lính. Muốn theo Chúa phải từ bỏ. Từ bỏ của cải bằng cách chỉ coi mình như người quản lý thôi; từ bỏ tình cảm, ngay cả với những người thân thiết nhất bằng cách không bao giờ ưu tiên cho họ hơn Chúa; từ bỏ chính bản thân, những ý thích cá nhân, từ bỏ ý riêng, từ bỏ sự tự do, từ bỏ những điều mình ưa thích khi những điều ấy đi ngược lại với lời dạy của Chúa hay làm cho bản thân xa cách Người.
Từ bỏ là quy luật của cuộc sống và sự phát triển.Thai nhi không thể ở mãi trong lòng mẹ cho dẫu nơi đó an toàn, êm ấm nhất. Đứa trẻ phải từ giã lòng mẹ để sinh ra làm người. Đứa trẻ không thể nào trưởng thành nếu nó cứ sống mãi bằng sữa mẹ, nó phải thôi bú, ăn cơm bánh mới lớn lên.
Cuộc sống đặt con người trước những sự lựa chọn. Chọn lựa là giới hạn. Chọn điều này phải bỏ điều kia. Sống là chấp nhận từ bỏ. Chọn những điều tốt loại bỏ những điều xấu. Có những điều xấu cần từ bỏ như cờ bạc, say sưa, ma tuý, truỵ lạc, trộm cắp…Cũng có những điều tốt phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn, chẳng hạn khi chọn trường học, chọn nghề nghiệp, chọn nơi ở, chọn bậc sống, chọn bạn bè, chọn vợ chồng. Thanh niên nam nữ khi tìm hiểu nhau thì có nhiều người nhưng khi chọn vợ chồng thì chỉ chọn một mà thôi. Từ bỏ đòi hỏi nhiều hy sinh. Mỗi sáng thức dậy đi lễ, bỏ lại chiếc giường êm ấm. Mỗi tối gia đình tắt tivi để cùng quy tụ đọc giờ kinh. Giữ ngày Chúa nhật, bỏ công việc làm ăn có nhiều lợi nhuận. Bỏ đi một tật xấu để tập một nhân đức. Cao cả hơn, bỏ đời sống hôn nhân để sống đời tận hiến cho Chúa…
Sự từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu. Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Khi yêu người ta cảm thấy nhẹ nhàng. Sự từ bỏ vì tình yêu là một niềm hạnh phúc. Cha mẹ tần tảo dãi dầu mưa nắng lo cho con cái ăn học. Học sinh, sinh viên thức khuya dậy sớm miệt mài học tập.
Sự từ bỏ như thế thật đáng trân trọng. Ai cũng ngại từ bỏ, nhất là từ bỏ những gì gắn liền với mình nhất, cam go hơn cả là chính con người mình. Bằng hy sinh và tình yêu ai cũng sẽ làm được tất cả để cuộc sống ngày càng đạt “chất lượng cao”. Từ bỏ giống như cuộc leo núi. Leo núi là một cuộc mạo hiểm, đó không phải là một cuộc dạo chơi nhàn hạ; nó đòi hỏi sức khoẻ, sức chịu đựng dẻo dai, tài khéo léo, lòng can đảm. Càng lên cao, người leo núi càng hưởng nhiều niềm vui, càng tắm mình trong ánh sáng chan hoà và được chiêm ngưỡng cảnh trời đất bao la hùng vĩ.
2. Vác thập giá
Hai yêu cầu được gói gọn trong hai động từ, đó là “từ bỏ” mọi sự và “vác” thập giá. Không chỉ dứt bỏ mọi sự, người môn đệ theo Chúa còn phải vác thập giá theo Chúa mỗi ngày trong đời sống của mình
Theo Chúa giống như đi leo núi. Thập giá giống như cây gậy của người leo núi. Nó rất cần và rất có ích. Không có gậy để dò đường và để chống đỡ thì ta sẽ mỏi chân, sẽ không đi nổi, có khi té ngã hay bỏ cuộc.
Nghe nói đến thập giá phải vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Thật ra, thập giá đi liền với tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Thập giá phát xuất từ một tình yêu của Đấng Cứu Độ. Thập giá là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh?
Thập giá được tạo nên do hai thanh gỗ, một nằm và một đứng. Thanh nằm tượng trưng cho sự chết và sự yếu đuối trải rộng. Thanh đứng tượng trưng cho sự sống vươn cao. Hai thanh bắc ngang nhau tượng trưng cho sự tương phản giữa sự sống và sự chết, giữa vui buồn và cười khóc, giữa khoái lạc và đau khổ, giữa ý muốn con người và ý muốn Thiên Chúa. Đặt thanh vui mừng trên thanh đau khổ là cách duy nhất để làm nên một thánh giá.Ý mụốn của con người là thanh nằm. Ý muốn của Thiên Chúa là thanh đứng. Ngay khi đối kháng hai ý muốn này tức là đã tạo nên một thập giá. Do đó thập giá là biểu tượng của đau khổ.
Nếu thập giá là biểu tượng của đau khổ thì Đấng chịu đóng đinh đã chiến thắng đau khổ. Chúa Kitô đã tạo ra sự khác biệt hoàn toàn giữa thập giá và kẻ bị đóng đinh. Khi nhận lấy thập giá, Đấng là tình yêu đã cho thấy rằng tình yêu có thể biến đau khổ thành niềm vui, để những ai gieo trong nước mắt có thể gặt giữa tiếng cười, những ai khóc lóc có thể được an ủi, những ai đau khổ có thể đồng hiển trị với Người.
Tình yêu như là điểm giao thoa giữa thanh nằm của sự chết và thanh đứng của sự sống trong một xác quyết: mọi sự sống đều ngang qua sự chết. Đau khổ là hy sinh không tình yêu đang khi hy sinh là đau khổ kèm theo tình yêu. Tình yêu biến đau khổ thành hy sinh dâng hiến vời niềm vui. Thiếu tình yêu, hy sinh chỉ còn là đau khổ gánh nặng và buồn chán. Đức Kitô đã đón nhận cái chết trên thập giá vì yêu thương nhân loại. Cái chết của Chúa là một hiến lễ có giá trị cứu chuộc tội, đền tội và Người “chỉ dâng hiến lễ một lần là đủ”.
Hôm nay, nơi nào có bóng thập giá là nới ấy có dấu chân người Kitô hữu. Ba cây thập giá dựng lên chiều thứ sáu tử nạn, Đức Kitô ở giữa hai tội nhân. Trong ba cây thập giá ấy chỉ có cây ở giữa là Thánh giá. Khi Đức Kitô tắt thở trên cây thập giá, Người đi vào đời sống mới thì cây thập giá khốn khổ ấy trở thành cây cứu rỗi và trở nên thánh. Sự thánh ấy là tình yêu, là đau khổ, là sự chết và là vinh quang. Không có tình yêu thì thập giá không là thánh giá.
Ai muốn làm môn đệ Chúa Giêsu phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: tình yêu gia đình, bạn bè và bản thân mình.Thập giá của Chúa Giêsu là dấu chỉ cụ thể về tình yêu và sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha.
Mỗi ngày người Kitô hữu theo Chúa phải cố gắng từ bỏ rất nhiều và vác thập giá mỗi ngày. Người môn đệ luôn luôn đặt tất cả dưới Chúa và yêu Chúa trên mọi sự. Có tình yêu của Chúa trong mỗi hành vi từ bỏ, người môn đệ có thêm sức mạnh ơn thánh, để mọi thập giá trong đời trở thành thánh giá. Từ bỏ để có thêm. Thêm lòng mến Chúa, thêm thánh thiện, thêm niềm vui phục vụ tha nhân.
4. Quyết tâm từ bỏ tất cả để vác thập giá của mình _ Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Nếu chúng ta đã chú ý lắng nghe Lời Chúa, chắc chắn không ai có thể yên tâm được. Lời Người đòi hỏi rõ ràng quá! Người dạy: phàm ai trong các ngươi không từ bỏ của cải mình đi hết thảy, thì không thể làm môn đệ của Ta. Ấy là chúng ta mới chỉ nhắc lại một Lời của Người đó thôi. Mở đầu bài Tin Mừng hôm nay, Người còn nói: Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống của mình nữa, ắt không thể làm môn đệ của Ta. Những lời này phải hiểu thế nào đây? Không lẽ hiểu theo nghĩa đen; và như vậy thi hành thế nào được, vì kìa có ai làm như thế đâu? Các tu sĩ khổ hạnh cùng lắm cũng chỉ từ bỏ được của cải; nhưng họ đâu có ghét cha ghét mẹ. Ðàng khác Chúa không dạy phải thảo kính cha mẹ ư?
Do đó, Lời Chúa phải hiểu theo cách thức nào đây? Chúng ta muốn tìm một lối giải thích. Nhưng ý tứ, bài sách Khôn ngoan bảo chúng ta phải coi chừng.
1/ Ai nghĩ ra được Chúa muốn gì?
Quả thật tác giả là người khôn. Ông sống khoảng 100 năm trước Ðức Giêsu Kitô. Thời ấy người Do Thái tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp, nổi tiếng có nền triết học thâm thúy. Chắc chắn người Hy Lạp coi rẻ văn chương Do Thái, như dân mẫu quốc khinh khỉnh đối với sách vở của dân thuộc địa. Và chính nhiều người Do Thái cũng đâm ra mặc cảm, không thấy Sách Thánh của mình có giá trị tuyệt đối nữa, và xét theo nhiều phương diện còn kém tư tưởng của các nhà triết học. Chính trong bối cảnh lịch sử ấy nẩy sinh loại văn chương khôn ngoan trong bộ Kinh Thánh. Nhiều học giả đạo đức trong dân Chúa đã được Chúa soi sáng và hướng dẫn để giúp anh em tín hữu biết đối thoại với nền văn hóa mới: Suy nghĩ các đề tài nền văn hóa này chú trọng cũng như hiểu rõ các chân lý đặc biệt của đạo Chúa. Công việc của những tác giả ấy còn khích lệ chúng ta hiện nay, và có thể nói hơn bao giờ hết. Bởi vì chưa bao giờ nhân loại tiến bộ như hiện nay. Các khám phá mới về khoa học và các tư tưởng táo bạo của thời đại chúng ta bó buộc niềm tin của chúng ta phải suy nghĩ, nếu không muốn nó bị người ngoài coi khinh và có thể khiến chúng ta tự ti mặc cảm cách nào đó trong đời sống hằng ngày. Bài sách Khôn ngoan hôm nay vắn tắt nhưng có thể trở thành lợi khí, nếu chúng ta biết hiểu.
Ðây là đoạn kết của lời kinh cầu nguyện mà tác giả dâng lên Thiên Chúa. Ông xin Người ban cho mình được sự khôn ngoan. Không phải vì ông thất học hay dốt nát. Ông mượn danh nghĩa của Salômon để viết ra tác phẩm "Khôn ngoan" này. Và sự khôn ngoan của Salômon đã trở thành vô địch, đến nỗi Nữ hoàng Phương Nam phải đến học khôn. Nhưng người thông thái thật không tưởng mình đã biết hết và chỉ kẻ thiển cận mới ba hoa tuyên bố các ngu xuẩn của mình.
Ðặc biệt, những người khôn ngoan luôn biết định mức các kiến thức của mình. Tác giả bài sách hôm nay là một trong những người như vậy. Ngay từ đầu, ông phân biệt rõ phạm vi ý định của Thiên Chúa và giới hạn tư tưởng của loài người. Thế giới của Thiên Chúa siêu việt. Khả năng của loài người bất lực trước các chân lý của Người. Ðiều này hiển nhiên không cần bàn cãi. Nhưng còn hiển nhiên không kém, là tư tưởng của loài người cũng yếu ớt dễ sợ ngay trong phạm vi của mình. Kiến thức của họ lỏng chỏng chứ không bền vững. Và tác giả nói rõ lý do vì sao. "Quả thật xác hư nát đè nặng linh hồn, lều đất làm trĩu xuống linh hồn đăm chiêu".
Chúng ta có cảm tưởng ông muốn nói với người Hy Lạp và phê bình giá trị tư tưởng của họ. Họ tự phụ có nền triết học cao. Nhưng đấy cũng chỉ là sản phẩm của trí tuệ và linh hồn con người. Thế mà linh hồn cũng như trí tuệ ở trong xác mà con người Hy Lạp vẫn coi như tù ngục và vât chất. Xác thịt lôi cuốn tinh thần xuống, đè nặng trên các tư tưởng của con người, khiến triết học của họ yếu ớt và lỏng chỏng. Người ta ước lượng các việc dưới đất một cách khó khăn; và nhiều điều trước mắt người ta cũng phải vất vả mới nhìn ra được. Khổng Tử cũng không nói khác khi ông tuyên bố: Việc đời này tôi cũng chưa rành, tại sao lại phải hỏi tôi về việc đời sau?
Phải, sự khôn ngoan của con người có hạn. Kiến thức của họ lỏng chỏng yếu ớt. Người khôn phải có thái độ thế nào? Salômon tự thú: Nếu Thiên Chúa không ban, tôi không thể có được sự khôn ngoan. Nên tôi đã thưa với Chúa và cầu xin Người: Xin ban cho tôi khôn ngoan chung ngự ngai Người và đừng loại tôi khỏi số con cái của Người.
Ước gì chúng ta được lòng đạo đức ấy! Gặp nền văn hóa mới, gặp những tư tưởng mới, chúng ta noi gương tác giả sách Khôn ngoan. Chúng ta xin Chúa hướng dẫn và tìm trong Mạc khải của Người ánh sáng cứu độ cho cuộc đời trần gian. Thiên Chúa đã nói với chúng ta, nơi Ðức Giêsu Kitô là Ngôi Lời chung ngự ngai Thiên Chúa. Ngài đang mạc khải ý định của Ngài nơi Sách Thánh và trong Hội Thánh. Chúng ta có biết để các kiến thức của loài người dưới chân sự khôn ngoan của Thiên Chúa, mới hy vọng nhận được ánh sáng soi dẫn cuộc đời trong chân lý. Giờ đây chúng ta cũng phải làm như thế để đón nhận lời dạy của Ðấng Khôn ngoan đang tuyên bố con đường cứu độ trường sinh.
2/ Ai muốn làm môn đệ Chúa
Chúa Giêsu nói với những ai muốn làm môn đệ Người. Người nói với quần chúng đông đảo, làm chứng Người muốn kêu gọi hết mọi người và muốn mọi người được hạnh phúc. Do đó, Lời của Người không dành riêng cho một nhóm người nào. Ðừng bảo những lời ấy chỉ có giá trị đối với người Do Thái đồng thời với Người. Cũng đừng nói ngày nay những lời ấy chỉ dành cho linh mục và tu sĩ. Chúa Giêsu nói với tất cả chúng ta ngày hôm nay. Người bảo: Muốn đến với Người và làm môn đệ của Người phải ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống của mình nữa. Lại phải vác khổ giá mình mà đi sau Người. Và phải từ bỏ của cải mình đi hết thảy.
Dĩ nhiên Chúa chẳng vô lý đòi chúng ta bỗng dưng phải bỏ cha mẹ, bạn hữu, mạng sống và của cải. Con người ở đời phải có những sự ấy. Và nếu những sự ấy giúp chúng ta đến với Chúa và làm môn đệ của Người, thì có chi mà phải ghét bỏ? Nhưng khi mà những sự ấy trở thành chướng ngại vật cho chúng ta trên đường đi theo Chua, thì hôm nay Người bảo chúng ta phải dứt khoát lựa chọn: hoặc bỏ chúng để được Người, hoặc giữ chúng mà mất Người. Không có lối thoát nào khác. Không phải vì Chúa quá đòi hỏi; nhưng giữa ánh sáng và tối tăm, giữa tình yêu và hận thù, người ta phải lựa chọn.
Thế nên, tiếp theo Chúa bảo người ta phải suy nghĩ, cân nhắc. Như người muốn xây tháp, như vua sắp đi giao chiến, phải suy tính kỹ lưỡng kẻo tháp xây không nổi, đánh trận sẽ thua, khiến không những bị cười nhạo mà cuộc đời cũng tiêu luôn.
Người ta phải suy nghĩ trước khi đi theo Chúa. Và theo Chúa không như theo bất cứ một ai. Những người Do Thái đồng thời với Ðức Giêsu còn có thể hiểu lầm được, chứ ngày nay chúng ta đã thấy rồi, Chúa đã đi con đường thập giá, ai muốn đi sau Người, cũng phải mang lấy thập giá.
Tôi tưởng đây là câu chính trong bài Tin Mừng hôm nay. Kẻ muốn làm môn đệ của Chúa Giêsu Kitô phải vác thập giá đi sau Ðấng đã vác thập giá mở đường cứu độ cho muôn người. Ðối với những thính giả ở thời Ðức Giêsu, điều này có một ý nghĩa rất cụ thể. Người ta vẫn thấy những tên tù tội phải vác thập giá đi đến nơi chịu tử hình. Ngày nay chúng ta đã thấy Ðức Giêsu đi như thế. Ai đi sau Người tất bị khai trừ bởi những ai phủ nhận đường lối Người đã đi. Không chấp nhận bị khai trừ như vậy không thể làm môn đệ của Người được. Và khi đi vào con đường thập giá như vậy, làm sao còn có thể bám vào của cải thế gian nữa? Do đó hãy hiểu hai đòi hỏi "ghét cha mẹ" và "từ bỏ của cải" như là điều kiện và hậu quả của việc lựa chọn đi vào đường lối của Chúa, khi tình yêu tự nhiên và của cải thế gian ngăn trở người ta bước đi sau Chúa để trở thành môn đệ của Người.
Có khi nào như vậy không? Thường ra thì không như trong trường hợp của chúng ta hiện nay. Cha mẹ, vợ con, anh chị em đâu có cản trở chúng ta đi theo đường lối của Chúa. Ngược lại, cha mẹ thường muốn con cái giữ luật Chúa, vợ ao ước chồng giữ các giới răn của Chúa, anh chị mong muốn các em sống đời đạo đức. Có khi vì vậy mà con cái ghét cha mẹ, chồng khó chịu với vợ, và các em giận hờn anh chị. Những sự ghét bỏ ở đây là tội lỗi và bất công. Nhưng hồi Ðức Giêsu giảng đạo tại thế, các môn đệ của Người phải bỏ cha mẹ, vợ con mới đi theo Người được. Và trong lịch sử nhiều cuộc cấm đạo, người đi theo Chúa buộc lòng phải ghét bỏ cả cha mẹ, vợ con, anh chị em và sự sống của mình mới có thể vác thập giá theo chân Chúa Giêsu đi đến chỗ tử đạo được, khi những người kia cản trở mình trung kiên trong đức tin.
Ðó là những trường hợp hy hữu và điển hình để khẳng định dứt khoát chân lý sau đây: không được yêu thích người nào, vật nào hơn Chúa; và phải kính yêu Người hơn hết thảy mọi sự, mọi người. Ðiều không phải là người ta không thi hành chân lý này mọi nơi, mọi lúc. Quá nhiều khi họ nghe theo cám dỗ, thích các ham muốn xác thịt hơn Luật Chúa và vị nể người này người khác mà không dám làm theo tiếng lương tâm. Họ không xứng đáng làm môn đệ của Chúa Giêsu, Ðấng đã vác thập giá đi trước để mở đường cứu độ cho những ai chấp nhận vác thập giá của mình đi sau.
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay cũng đặt Philêmon trước một lựa chọn. Ông có thể xử sự theo lẽ tự nhiên hoặc thi hành tiếng gọi của Chúa? Ông sẽ lựa chọn theo sự khôn ngoan của loài người hoặc sẽ nhờ sức mạnh Thánh Thần khôn ngoan của Thiên Chúa mà hành động? Ông sẽ tỏ mình là môn đệ của Chúa hoặc chỉ sống như một người thế gian? Chúng ta đọc qua đọc lại đoạn thư này để thấy Lời Tin Mừng đòi buộc áp dụng cụ thể và chỉ những ai nhận được sự khôn ngoan của Thiên Chúa mới có thể là môn đệ của Người.
3/ Bạn sẽ xử sự thế nào?
Philêmon là một người giàu có. Có thể chính Phaolô đã làm cho ông theo đạo. Ông có một tên nô lệ gọi là Ônêsimô. Anh này bỏ trốn. Phaolô đã gặp anh và làm cho anh theo đạo. Nhưng Người phải xử trí thế nào đây? Không trả Ônesimô lại cho Philêmon hoặc để anh trốn đi nơi khác, là bao che một kẻ phạm pháp và gây ra nhiều hiểu lầm tai hại cho Ðạo Thánh. Phaolô một mặt khuyên Ônêsimô trở về và mặt khác viết một thư để anh cầm theo mang đến cho Philêmon.
Lá thư vắn tắt nhưng thống thiết, chan chứa tình người và nhất là hối thúc đức ái siêu nhiên. Phaolô nại đến tuổi già của mình và hoàn cảnh đang bị cầm tù vì Ðức Giêsu Kitô. Những lý do này khiến Người có thể đòi hỏi Philêmon bất cứ điều gì. Nhưng Người không muốn áp đặt mà chỉ muốn chính Philêmon phải lựa chọn. Ônêsimô trước đây khi trốn đi là tên nô lệ; nhưng bây giờ khi trở lại, anh đã trở thành con Chúa và là anh em của chúng ta.
Hơn nữa, anh đã được sinh ra trong tuổi già và xiềng xích của Phaolô. Philêmon sẽ đón nhận anh như một chủ thế gian gặp lại tên nô lệ đã trốn đi; hoặc ông sẽ cư xử như một môn đệ của Chúa, đón nhận anh như một đồng đạo, và do đó như một người anh em và bạn hữu? Chúng ta không được biết Philêmon xử trí như thế nào. Nhưng một bức thư thống thiết, đầy tình nghĩa và lý tưởng cao như vậy, chắc chắn đã có hiệu quả tốt đẹp. Philêmon bỏ lòng giận dữ, khước từ quyền lợi thế gian và xã hội cho phép mình đón nhận lời Phaolô như sự khôn ngoan và Thánh Thần của Thiên Chúa, để cư xử như một người môn đệ tốt của Chúa Giêsu Kitô, xứng đáng lưu tên tuổi lại trong bộ Kinh Thánh, trở thành gương mẫu cho chúng ta khi nghe tiếng Chúa kêu gọi trong những trường hợp rất cụ thể thuộc đời sống trần gian. Chúng ta ghi nhớ bài thư hôm nay để thấy rõ Lời Chúa rất cụ thể. Người kêu gọi chúng ta luôn biết từ bỏ thế gian xác thịt để trở thành môn đệ của Người. Và chúng ta chỉ làm được như vậy khi thâm tín Lời Chúa và lệnh truyền của Chúa là sự khôn ngoan Thánh Thần vượt xa mọi luận lý phàm nhân của chúng ta.
Chúng ta hãy cầu xin được thêm lòng xác tín mọi lệnh truyền của Chúa, được nhiều ơn Thánh Thần hơn để mạnh mẽ khước từ và ghét bỏ các cám dỗ, hầu sống xứng đáng là môn đệ của Chúa. Thánh lễ này muốn mang đến tất cả những ơn đó.
Ðặc biệt nơi bàn thờ sẽ nhắc nhở và thực hiện mầu nhiệm của Chúa Giêsu Kitô không những vác thập giá mà còn chết trên thập giá để cống hiến Thịt Máu Người cho chúng ta được sống.
Chúng ta không thể đón nhận một tình yêu như vậy mà không quyết tâm từ bỏ tất cả để vác thập giá của mình và đi theo Người. Xin Người đến hộ sức cho chúng ta.
Chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường.
Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn, mà chọn là từ bỏ.
Từ bỏ trở thành quy luật để sống và lớn lên.
Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm.
Đứa bé chẳng thể nào trưởng thành, nếu nó sống mãi bằng sửa mẹ.
Từ bỏ thường là những cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u.
Có nhiều người không có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.
Trong đoạn Tin Mừng trên đây, Đức Giêsu đã nói ba lần câu: "thì không thể làm môn đệ tôi được."
Chúng ta đã trở nên môn đệ Đức Giêsu, nhưng để tiếp tục là môn đệ của Ngài, ta cần phải đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác.
Người Kitô hữu lớn lên nhờ chọn lựa và từ bỏ.
Trung tâm điểm là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối.
Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị tinh thần. Mạng sống là một giá trị trổi vượt. Nhưng ngay cả những giá trị đó cũng phải được hy sinh khi cần, để tôi chọn Đức Giêsu, Giá Trị của mọi giá trị.
Các thánh tử đạo đã chọn lựa như thế.
Dĩ nhiên chúng ta yêu gia đình, yêu bè bạn, yêu trái đất nâng ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc sống làm người với bao niềm vui và nước mắt. Nhưng ta phải yêu tất cả trong Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, chúng ta chọn Chúa.
Như thế, tuy người Kitô hữu gắn bó với tạo vật nhưng vẫn giữ một khoảng cách nào đó, để luôn sống trong tự do, bình tâm.
Vấn đề là dám chọn và tiếp tục chọn, không để cho tháp đã xây bị dở dang, không để cho cuộc tiến quân bị ngừng trệ.
Vấn đề là dám đi tới cùng, để tiếp tục trung tín với một Tình Yêu.
Phải cởi bỏ mình khỏi những điều xấu, nhưng cũng phải tách mình khỏi nỗi đam mê lệch lạc một điều tốt: yêu nó ngoài Chúa và trên Chúa.
Ước gì chúng ta tự cởi trói mình mỗi ngày và nhờ ơn Chúa, chúng ta được tự do.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay dễ bị lôi cuốn bởi thú vui nào? Đâu là những nguy hiểm của thú vui đó?
Bạn có kinh nghiệm gì về sự cám dỗ của một điều vốn là tốt, nhưng sau đó lại làm bạn bị nô lệ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.
Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Đấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.
7. Từ bỏ để tồn tại và tăng trưởng
(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ - Lm Ignatiô Trần Ngà)
Mùa thu về, cây trụi lá, mùa xuân đến, cây đơm lộc xanh tươi.
Cây cối cần phải từ bỏ lá già, lá cũ để khoác lá mới; nhờ thế, cây được lớn lên. Loài rắn cũng phải từ bỏ bộ da cũ để thay da mới; có vậy rắn mới trưởng thành. Loài tôm cũng phải lột vỏ nhiều lần theo đà tăng trưởng để lớn lên... Nói chung, từ bỏ là điều kiện tối cần thiết để cho muôn vật muôn loài được sống còn và tăng trưởng.
Là một sinh vật như bao nhiêu loài vật khác, nên muốn tăng trưởng và tồn tại, con người cũng không thoát ra ngoài quy luật đó.
Hằng ngày cơ thể ta loại bỏ hàng tỉ tế bào cũ để thay vào đó những tế bào mới, nhờ đó cơ thể được lớn lên và mạnh khoẻ. Nếu các tế bào cũ không chịu chết đi để nhường chỗ cho những tế bào mới, thì khối u sẽ xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến ung thư và cái chết đau thương!
Đời người cũng là một tiến trình từ bỏ liên tục: người lao động phải đổ nhiều mồ hôi, phải bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ mới kiếm đủ tiền cấp dưỡng cho gia đình và bản thân. Người lính chiến phải chấp nhận hy sinh thân mình mới bảo vệ được quê hương. Học sinh phải từ bỏ nhiều giờ vui chơi giải trí, giảm bớt giờ ngủ nghỉ để miệt mài đèn sách thì may ra mới chen chân vào đại học. Các nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu kiên trì mới có cơ may phát minh và sáng tạo...
Muốn làm ăn lên, phải đầu tư bỏ vốn; muốn thu vào, phải phát ra. Ai không phát ra, không từ bỏ, thì không thể thu vào được gì đáng giá. Đó là quy luật của cuộc đời.
Từ bỏ để đổi lấy những giá trị cao hơn
Của cải đời nầy cũng thật đáng quý, nhưng khi cần, người ta sẵn sàng từ bỏ của cải để dành lấy những giá trị cao hơn. Khi bị cướp hăm doạ tính mạng và đòi lấy của cải bạc tiền, người ta sẵn sàng bỏ của lấy người. Khi bị một chứng bệnh nan y đe doạ cướp đi mạng sống, người ta sẵn sàng bỏ ra hàng tỉ bạc để kéo dài đời sống, dù chỉ sống thêm được một năm.
Qua cuộc đời từ bỏ của mình, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy từ bỏ không là mất đi nhưng là được lại và là được lại gấp nhiều lần.
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ", chấp nhận mang lấy thân phận con người mỏng giòn yếu đuối, trở thành Người tôi tớ của Thiên Chúa Cha. Ngài đã từ bỏ tự do và ý riêng của mình để vâng phục Cha như người tôi tớ thấp hèn, "cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự"... Thế nên Ngài được Chúa Cha hết lòng yêu mến, được Cha tôn vinh và đặt làm Chúa Tể mọi loài. (xem Phi-lip 2, 6- 11).
Con đường bỏ mình, từ bỏ mọi sự, con đường thập giá mà Chúa Giêsu đã đi thì Ngài cũng mời gọi các môn đệ cùng đi: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được."
Hôm nay, nếu chúng ta muốn học dưới mái trường của Thầy Giêsu, muốn làm môn đệ Chúa Giêsu thì chúng ta cũng phải đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, thực hiện điều mà Thầy chí thánh đã thực hiện, đó là chấp nhận từ bỏ, chấp nhận thập giá.
Nhưng hãy nhớ rằng: từ bỏ không phải là mất mát, dâng hiến không phải là tiêu vong, nhưng trái lại, "chính khi hiến thân là lúc nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc nhận được bản thân" (Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Átxidi)
Thế là sự từ bỏ theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, lại trở thành một cuộc đổi chác có lợi: đổi của tạm thời để lấy của đời đời; đổi cái phù du để thu về vĩnh cửu.
(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Ở đời người ta cần có niềm tin để sống với nhau. Nhờ tin vào nhau con người sẽ gần gũi nhau hơn, sẽ dễ dàng cảm thông với nhau hơn. Nhờ tin vào nhau con người sẽ vượt qua những rào cản của nghi kỵ, hiểu lầm để sống thân ái với nhau hơn. Ngoài tương quan giữa người với người còn có một tương quan khác chính là giữa Thiên Chúa và con người. Trong tương quan với Thiên Chúa, con người cần có đức tin. Đức tin để con người bước đi với Đấng mà mình chưa một lần gặp gỡ diện diện đối diện. Đức tin để con người có thể nhìn xem trời đất biển rộng bao la mà khám phá ra sự hiện diện đầy tình yêu quan phòng của Chúa mà phó thác, mà tin tưởng, cậy trông. Đức tin sẽ giúp con người dấn thân một cách trọn vẹn cho Thiên Chúa, cho dù có phải đi trong mênh mông đêm tối của biển đời, cho dù phải trải qua những thử thách gian truân, con người vẫn luôn xác tín một điều: Thiên Chúa không bỏ rơi con ngừơi. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Thiên Chúa luôn là thuẫn đỡ chở che cho cuộc đời chúng ta.
Có người đã kể lại giấc mơ của mình như sau:
- Tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng có luồng ánh sáng xuất hiện, trong đó có Chúa Giêsu đang ngự trên một tấm thảm. Người mỉm cười bảo tôi:
- Con hãy ngồi trên tấm thảm này với Ta.
Lòng tràn ngập vui sướng, tôi đến gần Chúa và ngồi trên tấm thảm bên cạnh Người và tấm thảm từ từ bay bổng lên. Nhưng rồi tôi cảm thấy như Chúa không còn bận tâm đến tôi nữa, Người chăm chú rút từng sợi chỉ từ chiếc thảm chỗ Người và tôi. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại một nửa, và giữa chỗ Chúa và tôi đang ngồi lại có một lỗ trống to lớn. Tay chân tôi bắt đầu run lên vì sợ rơi xuống đất chết. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ, đến nỗi tôi khiếp sợ kêu lên:
- Lạy Chúa, Chúa làm gì vậy? Chúa không thấy tấm thảm của chúng ta đã tan tành sao?
Chúa cười rồi cầm lấy tay tôi nói:
- Sao con nghi ngờ, kém lòng tin? Con hãy bám chặt vào Ta. Con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dầu con phải bị tước đoạt hết cả đến sợi chỉ cuối cùng.
Người vừa dứt lời thì quả thực, sợi chỉ cuối cùng đã bị rút đi. Tôi sợ hãi quá, giật mình thức dậy...
Nếu sự kiện đó xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta sẽ phản ứng ra sao? Chúng ta có dám bỏ tất cả để chỉ bám vào một mình Thiên Chúa không? Chúng ta có dám thả trôi những sợi chỉ của tiền tài, danh vọng để chỉ còn lại một mình ta với Chúa hay không?
Một cách nào đó, đời sống của mỗi người chúng ta cũng bị trói buộc bằng những sợi chỉ tuy nhỏ bé mong manh, nhưng là những chướng ngại vật cản trở đà bay của chúng ta. Biết bao lần chúng ta tưởng mình đang đi tìm hạnh phúc thật, nhưng thật sự nó chỉ đem lại cho chúng ta thứ hạnh phúc mau qua chóng tàn, khác nào như những sợi chỉ mỏng manh kia. Biết bao lần chúng ta bám víu vào những tình cảm của con người, nhưng rồi cũng gặp phải biết bao ê chề của sự vô ơn, bội tín, bất trung. Biết bao lần chúng ta tưởng như ngồi mãi trên tấm thảm danh vọng cao sang nhưng rồi địa vị, chỗ ngồi như "của đồng lần" cũng bỏ ta để sang tay kẻ khác. Biết bao lần, thay vì bám chặt vào Chúa, đặt hết niềm tin cậy nơi Chúa, chúng ta lại chạy theo những người, những vật mỏng dòn chóng qua.
Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và hay thương xót. Người biết rõ chúng ta dễ gắn bó với tạo vật mà bỏ quên Người. Thế nên, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đặt chúa trên hết mọi quyến luyến trần gian. Hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa để thắng vượt những ràng buộc, trở ngại trong cuộc đời.
Đã có thời người Do Thái tưởng rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khôi phục lại vương quyền nhà Israel. Họ tưởng rằng Chúa sẽ đánh đông dẹp tây để xây dựng một nước Israel hùng cường và thịnh vượng. Họ theo Chúa xem ra chỉ nhằm mục đích để được hưởng những vinh hoa phú qúy trần gian. Tiền tài và bổng lộc trần gian là những thứ mà họ cần Chúa đáp ứng cho họ. Chúa Giêsu muốn đánh tan quan niệm, ý nghĩ sai lầm của nhiều người đang đi theo Chúa. Chúa đưa ra lời mời gọi những người muốn đi theo Ngài hãy suy nghĩ, đắn đo, tính toán xem họ có đủ can đảm, đủ nghị lực để theo Chúa đến cùng hay không? Và để theo Chúa, con người phải dành cho Ngài chỗ ưu tiên, chỗ nhất trong đời sống của mình và làm mọi việc để phụng sự Chúa, để tôn vinh Ngài. Theo Chúa là chấp nhận một cuộc mạo hiểm như Abraham đã rời quê cha đất tổ để đi theo sự hướng dẫn của Chúa. Theo Chúa là buông mình theo thánh ý Chúa như Đức Trinh Nữ Maria đã mạnh dạn thưa lên cùng Chúa:"này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần truyền". Theo Chúa là chấp nhận trải qua những gian nan thử thách của giông ba bão tố, của bách hại và tù đầy như thánh Phaolô tông đồ đã từng trải qua. Như vậy, theo Chúa là uốn mình theo thánh ý Chúa và bằng lòng với phận mình mà Thiên Chúa đã an bài. Vui với phận mình là cách mà chúng ta đang để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa thanh tẩy trí lòng chúng ta khỏi những toan tính lợi lộc trần thế khi theo Chúa. Xin thêm ơn trợ giúp để luôn trung thành sống cho Chúa. Cho dẫu có phải hy sinh những vinh hoa phú qúy trần gian. Cho dẫu có phải hy sinh những tình cảm chính đáng và cao thượng. Cho dẫu có phải bước đi trong đêm tối của đức tin với bao hiểm nguy và chông gai, nhưng luôn có Chúa là gia nghiệp và chiếm hữu hạnh phúc Nước Trời mai sau. Amen.
Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa.
Chúa đưa ra ví dụ người xây tháp, ông vua ra trận. Làm gì thì cũng phải tính xem mình có đủ sức hoàn thành không đã. Nhưng kết luận làm ta chưng hửng và há miệng suy nghĩ: “Cũng giống như thế, ai trong các ngươi không từ bỏ hết mọi của cải thì không thể làm môn đệ ta”. Trước đó, Chúa đã nói đến phải từ bỏ những người ruột thịt và chính mạng sống mình.
Cái nghịch lý ở đó. Muốn xây tháp phải có tiền. Muốn thắng trận phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Vấn đề không còn là có nhiều có ít mà là từ bỏ tất cả.
Thế nghĩa là gì? Từ bỏ tất cả để theo Chúa nghĩa là coi Chúa hơn tất cả và tin vào một mình Chúa. Muốn xây tháp phải có tiền, muốn thắng trận phải có lính, còn muốn theo Chúa phải coi Chúa hơn hết mọi người và mọi sự và tin tưởng vào Chúa hơn hết mọi sự, mọi người: tin vào Chúa mà thôi. Bởi vì muốn theo Chúa thì phải sống bằng lòng tin, cậy, mến.
Nếu không coi Chúa hơn hết mọi người, mọi sự thiết thân với ta, và ta cảm được sự gần gũi bằng giác quan, ta sẽ dựa vào những người và những vật ta thấy được, nên bóng tối đến, khi ta không cảm thấy Chúa đâu nữa, mà chỉ cảm thấy sức nặng của cuộc sống, của vất vả và đau khổ, ta sẽ dễ dàng bỏ Chúa để quay về với những người và những vật ta cảm thấy được.
Cuộc chiến đấu của Chúa Kitô là cuộc chiến đấu chống lại Satan chứ không phải với kẻ thù bằng xương bằng thịt, nên ta không thể dựa vào người nào hoặc sức mạnh nào của vật chất mà chiến thắng được, song phải dựa vào Chúa mà thôi. Đây vẫn là cuộc chiến đấu Đavít - Goliath: “Ngươi cầm gươm giáo ra đánh ta, còn ta, ta ra đánh ngươi nhân danh Chúa mà ngươi thách đố” (1Sam 17,44). Thế đấy, tuy Đavít đã có thể vỗ ngực trước mặt Saulê rằng mình đã từng tay không đánh nhau với sư tử và gấu để bảo vệ đoàn chiên của cha, nhưng khi nghênh chiến tên khổng lồ Goliath thì Đavít chỉ dựa vào Chúa thôi, và Đavít đã thắng, hay đúng hơn Chúa đã dùng tay Đavít mà tiêu diệt Goliath giải thoát cho dân Chúa.
Đây là vấn đề vinh danh Chúa. Chúa thi thố quyền năng để làm vinh danh Chúa, nên Chúa chỉ ra tay khi người ta không mưu toan chiếm đoạt vinh quang Chúa bằng cách gán cho thế lực, của cải hay tài sức mình. Trong chuyện Ghiđêon, Chúa đã bảo ông đuổi bớt người tình nguyện về, chỉ lấy 300 thôi, kẻo dân chúng lại tưởng nhờ sức họ mà họ chiến thắng.
Trong lịch sử, Chúa vẫn hành động như thế, Chúa hạ kẻ kiêu căng, tự phụ và nâng kẻ nghèo hèn, khiêm tốn lên. Có những vị thánh thông thái, tài ba… nhưng các vị ấy đều khiêm nhượng, nhìn nhận quyền năng của Chúa và sự yếu đuối của mình; có những vị thánh yếu đuối, dốt nát như thánh nữ Catarina de Sienna, thánh Gioan Maria Vienney để làm nổi bật quyền năng của Chúa.
Cái có vẻ nghịch lý lại là một hợp lý khi người ta biết nhìn ra ý nghĩa đích thật của việc đi theo Chúa, với mục đích là vinh danh Chúa và sức mạnh là sức của Chúa. Phải đặt Chúa lên trên hết vì Chúa là lẽ sống duy nhất của mình, vì đường lối của Chúa là duy nhất cho mình, và sức mạnh của Chúa là nguồn sức mạnh duy nhất để hoàn thành được cuộc hành trình theo sau Chúa, đi với Chúa.
Trên đời chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường. Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn, mà chọn lựa nào lại không phải từ bỏ! Sống là chấp nhận từ bỏ. Có những điều xấu phải từ bỏ như việc nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc... Cũng có điều tốt cần phải bỏ để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường học, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ vì yêu thương sẽ không bao giờ cảm thấy thiệt thòi, mất mát. Từ bỏ vì yêu thương sẽ làm ta cảm thấy nhẹ nhàng hơn, dễ chịu hơn, hạnh phúc hơn: Người mẹ hy sinh giấc ngủ, thức suốt đêm để lo lắng săn sóc cho con khi con yếu bệnh. Người cha hy sinh thức khuya dậy sớm để làm thêm giờ, kiếm thêm tiền lo cho gia đình con cái…
Từ bỏ đã trở thành quy luật để sống và lớn lên. Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm. Đứa bé chẳng thể nào trưởng thành, nếu nó cứ sống mãi bằng sửa mẹ.
Từ bỏ thường là những cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u. Có nhiều người không có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.
Bạn thân mến! Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu cũng nhắc đến hai chữ TỪ BỎ: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,26). Và Ngài nói thêm trong đoạn cuối bài Tin Mừng: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,33).
Điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô là phải biết từ bỏ, từ bỏ không ngừng, từ bỏ mỗi ngày cho đến khi ta nhắm mắt xuôi tay.
Điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô là phải biết đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác. Ngài đòi buộc ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên hết mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại và tương lai của mình nữa.
Người Kitô là người sống từ bỏ như Đức Giêsu, là đi vào con đường hẹp như Đức Giêsu: Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người, và tự nguyện chết thay cho con người. Cao trọng nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Thiên Chúa Cha.
Trung tâm điểm của đời sống người Kitô là Chúa Giêsu. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối là Chúa Giêsu. Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị khác. Mạng sống là một giá trị trổi vượt hơn cả. Nhưng tất cả những giá trị đó phải được hy sinh khi cần, để ta chọn Chúa Giêsu là “Giá Trị Tuyệt Đối” của mọi giá trị. Các thánh tử đạo đã chọn lựa như thế.
Dĩ nhiên ta luôn yêu gia đình, yêu bạn bè, yêu trái đất nâng đỡ ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc sống làm người với bao niềm vui và hạnh phúc. Nhưng ta phải yêu tất cả những điều đó trong Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, ta luôn luôn chọn Chúa.
Ước gì ta biết vui mừng và hạnh phúc khi chọn “viên ngọc quý” là Đức Giêsu, dám bán tất cả, từ bỏ tất cả để thấy mình giàu có. Và ước gì ta tự cởi trói mình mỗi ngày, và nhờ ơn Chúa, ta được tự do và bình an thanh thản trong suốt cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu! Sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa cũng thật là một thách đố. Chúa đòi buộc con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa muốn lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa mà thôi. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cuộc đời con sinh thêm nhiều hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con trọn vẹn thuộc về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan của cuộc đời, để sống theo những đòi buộc của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt ở đời này.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng: “trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa, thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu lắm rồi”. Amen.
(Trích dẫn từ ‘Chương Trình Tìm Về Chân Thiện Mỹ’)
KHÔNG TỪ BỎ MỌI SỰ THÌ KHÔNG THỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA
Đọc đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy đòi hỏi của Chúa Giêsu thật quyết liệt, để có thể trở thành môn đệ đích thực của Ngài, để được tiến vào vinh quang với Ngài!
Trước hết, chúng ta thấy: Mọi thành quả ở trần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắng mới có thể đạt thành mỹ mãn:
- Chẳng hạn, một lực sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội, họ phải tập luyện ngày đêm, tập luyện bao nhiêu năm tháng mới chiếm được danh dự đó ?
- Một người mẫu muốn có thân hình thon gọn, mỹ miều, cô phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục, không hề ngơi nghỉ… hơi lơ là một chút thì thân hình sẽ mất hấp dẫn ngay!
- Cũng thế, một sinh viên muốn chiếm thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn thi đậu để trở thành bác sĩ, luật sư… cũng phải bao nhiêu năm dùi mài kinh sử?
- Những người cao Cholesterol hay bị phì mập cũng phải ăn kiêng biết bao ngày tháng mới có thể giảm bớt, để có một thân hình cân đối???
Tóm lại, tất cả những ai muốn đạt thành những mục đích tạm bợ trần thế đều phải nỗ lực, kiên trì cố gắng ngày đêm như thế, còn Nếu muốn hạnh phúc đời đời, muốn được vinh quang miên viễn, muốn trở thành những người bạn tri âm, tri kỷ với Chúa Giêsu…chúng ta phải làm gì???
** Để xứng đáng với Ân Lộc vô cùng cao trọng đó, Chúa Giêsu- Vị Thầy của Các Thầy, Thầy dạy Chân Lý đã đòi hỏi tất cả chúng ta một điều, mới nghe, thật vô lý và khó thực thi, đó là: phải “Ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình” ( Lc 14, 26), nếu không, thì sẽ không được vinh dự ấy!... Điều hiển nhiên là trong toàn bộ Kinh Thánh, Chúa đã dạy chúng ta phải hết lòng yêu mến, hiếu thảo với cha mẹ, và trong Điều Răn IV, THẢO KÍNH CHA MẸ, Chúa đã truyền thành luật, mà nếu ai không tuân giữ, sẽ không vào được Nước Trời! Vậy Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng này có ý nghĩa gì???
Kính thưa quý vị và các bạn, Chúa nói mạnh như thế, để chúng ta hiểu rằng: Chúng ta phải đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự: Trên cha mẹ, vợ con, anh chị em và hơn cả chính mạng sống của chúng ta! Do đó, nếu ai yêu cha mẹ, vợ con và chính bản thân hơn Chúa, thì không xứng đáng làm môn đệ Chúa! Chính với ý đó mà Chúa đã truyền cho chúng ta phải “Yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn”, và bất cứ khi nào, vì yêu bản thân hay cha mẹ, vợ con… mà lỗi luật Chúa, thì không xứng với tình yêu và Phước Lộc của Chúa! Bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho mọi tâm hồn tôn thờ và yêu mến trên hết mọi sự mà thôi!
Hằng trăm ngàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông, tổ tiên của chúng ta đã chứng tỏ tình yêu Chúa hơn mạng sống mình: Các Ngài vui lòng chịu muôn nhục hình, chịu tra tấn, gông cùm, chịu phanh thây, chịu voi giầy,chịu đóng đinh đến chết chứ không chối bỏ Chúa! Đó là gương Yêu Mến Chúa cho tất cả chúng ta noi theo!
Ngày nay, bao nhiêu tâm hồn trên khắp thế giới luôn vui tươi Vác Thập Gía đời mình, thà chết không thà phạm tội mất lòng Chúa, họ ra đi gieo rắc Tin Mừng, đem Tình Thương đến cho những người tàn tật, phong cùi, câm điếc… Họ cũng đang chứng tỏ tình yêu mến Chúa khi hết lòng phục vụ những người xấu số, bệnh hoạn nhất, nghèo khổ nhất với tình yêu cảm thông sâu xa như họ đang yêu mến và phục vụ chính Chúa!
Có nhiều người vừa muốn làm môn đệ Chúa vừa yêu chuộng những thứ ngược lại với Chúa, như đam mê, tội lỗi, hoặc không muốn xa lìa dịp tội… Đó là những người vừa muốn vinh quang Nước Trời lại vừa không muốn từ bỏ lối sống đam mê của thân xác! Đó là người LÀM TÔI HAI CHỦ! Nửa nạc nửa mỡ sẽ không trở thành môn đệ của Chúa được! Đó cũng là người “xây tháp nhưng bỏ nửa chừng” (Lc 14, 28), thật đáng tiếc lắm thay!
** Để trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, chúng ta cần thi hành triệt để những lệnh truyền của Chúa. Đó là đường dẫn tới Sự Sống và Hạnh Phúc Viên Mãn. Con đường đó cũng đòi hỏi chúng ta TỪ BỎ chính bản thân, từ bỏ đam mê bất chính và những quyến luyến trần thế, hay nói cách khác: Chúng ta cứ việc yêu mến cha mẹ vợ con và mọi người, cứ việc có của cải, nhưng ĐỪNG DÍNH BÉN, đừng đặt bất cứ tình yêu nào, hoặc của cải hơn Thiên Chúa! Thiên Chúa phải chiếm địa vị quan trọng nhất, danh dự nhất trong linh hồn chúng ta. Chúa luôn là LẼ SỐNG là CÙNG ĐÍCH mà chúng ta hướng tới.
Còn, nếu khi nào chúng ta phải lựa chọn: Chọn Thiên Chúa hay tạo vật, thì các môn đệ đích thực của Chúa luôn chọn Thiên Chúa trước hết, còn mọi cái khác đều là thứ yếu! … Có sống như thế, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Chúa!
12. Một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất
(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ - Achille Degeest)
Trước hết chúng ta minh định danh từ để tránh hiểu lầm. Đức Kitô không bao giờ phán rằng muốn theo Chúa phải ghét cha ghét mẹ …… Ở đây là một sự sắp hạng, quan hệ tình cảm thông thường phải đặt sau quan hệ tình cảm siêu nhiên. Tình nghĩa gia đình phải đứng sau tình yêu mến Thiên Chúa. ‘Ghét’ ở đây phải hiểu theo nghĩa ‘giảm bớt tình quyến luyến’. Chúng ta ngạc nhiên thấy những đám rất đông đi theo Đức Giêsu trên đường hành đạo của Người, mà con số những kẻ rời bỏ gia đình trở nên môn đệ Chúa chẳng được là bao. Nhưng chúng ta hiểu ra khi thấy Chúa nói lên những điều Chúa đòi hỏi. Không bao giờ chỉ vì muốn lấy lòng dân chúng mà Chúa che giấu những đòi hỏi của Người. Với bất cứ ai, Chúa có một cung cách quý mến là không đề nghị một thái độ đồng lõa với yếu hèn, trái lại Người kêu gọi lòng hào hiệp của người ta. Tới ngày đông đảo dân chúng bỏ Chúa, nộp Chúa cho quân dữ giết, Người không kết án dân chúng vì Người muốn hy sinh mạng sống cho họ. Tới lúc đó, Chúa sẽ có những môn đệ xứng đáng với sự đòi hỏi của Người, họ sẽ trở lại trong dân chúng làm chất men trong bột. Bài đọc hôm nay của thánh Luca cho thấy Phúc Âm gần gũi đời sống tới mức nào.
1) Bất chợt Đức Giêsu đến với con người trong đời sống cụ thể, trong khung cảnh sinh hoạt gia đình. Chúa đem đến một sự việc cực kỳ mới lạ. Những tình cảm gia đình sâu đậm là thế, chính đáng là thế, nay con người thấy còn có một điều quá lớn vượt lên trên tình nghĩa gia đình. Do đó, hễ quyết tâm theo Đức Giêsu thì cũng quyết tâm mở rộng đời sống cụ thể đón lấy một thực tại sâu rộng hơn, hiện thân hơn những liên hệ gia đình cố hữu. Thánh Phanxicô, đấng thánh tôn trọng Phúc Âm rất nghiêm chỉnh, nhờ kinh nghiệm sống theo Phúc Âm của ngài mà thốt ra hai tiếng ‘cha’ và ‘mẹ’ khi ngài nói về Đức Kitô, trong miệng ngài từ ngữ ‘anh em’ mang nặng tình nghĩa đậm đà vượt xa tình huynh đệ thế gian. Tuy không ý thức rõ rệt, ngài vẫn diễn tả được cao độ phẩm chất nhân bản trong đời sống theo khuôn mẫu Phúc Âm. Phúc Âm vượt lên trên những tình cảm gia đình thông thường nhưng không hủy bỏ chúng. Có thể nói rằng, mặc dầu cái khuôn mẫu tình cảm thế gian vẫn được tôn trọng, có những liên hệ gia đình mới lạ được thiết lập qua một sự thăng hoa, ở một chiều cao hơn. Chúng ta có thể thực tình nói đến ‘gia đình trong Đức Kitô’.
2) Đòi hỏi của Đức Kitô không có gì là phi nhân. Nghe nói đến ‘thập giá’ phải mang vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Muốn có một sự hiểu biết đúng đắn, thì trong đầu chúng ta thập giá phải đi liền với một tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Tôi chọn lấy thập giá của Chúa thay vì tình yêu theo nhân tính tự nhiên nhất, chính đáng nhất, là bởi vì thập giá phát xuất từ một tình yêu thượng đẳng, nó thấm đượm sâu đậm cái điểm nhân tính nhất trong tôi, đó là sự tự do lựa chọn, là tâm hồn dâng hiến. Thập giá Đức Kitô là bằng chứng và cũng là bề nổi tình yêu của Chúa. Thập giá Chúa, tức là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh? Ở đây, chúng ta chẳng đang đứng trước một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất ư?
13. Sẵn sàng làm môn đệ trung thành của Chúa
(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Đằng sau bài đọc thứ hai ngày hôm nay là một khoảng thời gian thích thú. Một người nô lệ có cái tên là Onesimus đã trốn thoát khỏi chủ của mình là Philêmôn, và anh chạy tới chỗ Thánh Phaolô để được an toàn. Thánh Phaolô đã nồng nhiệt bảo vệ cho người nô lệ bỏ trốn này, nhưng thánh nhân nhận biết một điều gì đó có giá trị cao hơn là sự tự do của Onesimus đã được hoàn thành. Thánh nhân đã kêu gọi Philêmôn, chủ của người nô lệ, hãy hành động như một môn đệ thật của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô dễ dàng che giấu Onesimus hoặc nhân danh Đức Kitô đòi Philêmôn trả lại sự tự do cho người nô lệ. Thay vào đó Thánh Phaolô đã gởi Onesimus về với Philêmôn và những gì tôi tưởng tượng ra là sự tủi nhục của người nô lệ và sự ngạc nhiên của người chủ. Qua người nô lệ, Thánh Phaolô đã gởi cho Philêmôn một bức thư mà chúng ta đã nghe một phần trong bài đọc ngày hôm nay. Điểm chính của bức thư là Phaolô đã không muốn cưỡng bách Philêmôn thực hành nhân đức, thay vào đó thánh nhân chỉ muốn mời gọi ông hãy quảng đại. Tha thứ cho người nô lệ có nghĩa là phó mặc cho quyền sở hữu rất giá trị thời đó. Đó là một thách đố cho Philêmôn. Thánh Phaolô đã kết luận bức thư bằng cách nói rằng; “Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo vì tôi biết rằng việc anh sẽ làm còn làm hơn những gì mà tôi xin nữa”.
Thật sự chúng ta không biết chắc Philêmôn đáp trả như thế nào, ông có giải phóng người nô lệ hay không? Philêmôn có lẽ đã nhắc nhở Thánh Phaolô rằng việc nô lệ là hợp pháp và ông ta có quyền để giữ người nô lệ của mình? Có phải ông đã phàn nàn rằng Thánh Phaolô đã thật sự không hiểu về hoàn cảnh kinh tế của ông và người nô lệ thì cần thiết cho sự thành công tài chính của ông không? Chúng ta không biết Philêmôn có đáp trả như Thánh Phaolô mong đợi nơi ông như là người môn đệ của Chúa Giêsu hay không?
Chúng ta biết thế nào là môn đệ Chúa Giêsu và chúng ta được kêu gọi hãy trở nên quảng đại trong việc đáp trả của chúng ta, không phải là sống nhỏ giọt hoặc tìm kiếm những miễn trừ mà những người Công Giáo phải làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta qua ví dụ xây tháp và đi đánh nhau, chúng ta phải được sửa soạn cho kinh nghiệm Kitô giáo của chúng ta. Nước Trời đã là một tài sản được hứa ban trong tương lai. Trong lúc còn trên mặt đất này, chúng ta được mong đợi trở thành những môn đệ trung thành, những người lắng nghe và chăm chú vào những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ của Ta”.
Có lẽ thánh giá của chúng ta là những đau khổ có liên quan đến việc phải từ bỏ những nô lệ của chúng ta như là thói nghiện rượu, nghiện thuốc, hoặc là say xỉn, thánh giá của chúng ta có thể giữ chăm chú kỷ luật mà chúng ta cần để lướt thắng những chuyện đồn nhảm, để tha thứ những người nào đã đối xử bất công, hoặc là tử tế hay là nghĩ tốt cho những người luôn luôn cho chúng ta là điên rồ.
Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta trở nên đạo đức như Thánh Phaolô đã không cưỡng bách Philêmôn phải tha thứ cho nô lệ của ông. Ngay khi điều xấu xảy ra với chúng ta, Thiên Chúa cũng không cưỡng bách chúng ta phải chấp nhận nó như một thánh giá. Chúng ta phải nỗ lực làm việc để thấy được chúng ta có thể quay trở một điều đáng sợ trở thành một điều có giá trị, bằng việc kết hợp những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Đức Kitô.
Trong mọi Thánh Lễ chúng ta tưởng nhớ sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, như vậy qua bí tích Thánh Thể, sự hy tế của Ngài là một thực tại trước chúng ta trên bàn thờ. Khi chúng ta nghe những lòi: “Đây cũng là mình con nữa, cùng với Con Cha, con xin dâng chính mình con cho Cha”. Khi đó chúng ta sẽ nghe những lời: “Đây là chén Máu Ta”, chúng ta sẽ nói: “Đây là máu của con, con ước mong nó được đổ ra vì yêu Cha, nếu Cha muốn như vậy”. Chúng ta phải được chuẩn bị để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu Kitô.
(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Odette, một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở về. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon ở một lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con cái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vèn màn nhìn qua cửa sồ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đàu. Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có muốn nhận Simon là chồng theo luật Giáo Hội không? Cô đã dõng dạc tuyên bố “Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng hco Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô. Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đáu đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không ai cấm cản con đi theo Chúa Kitô nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó, nữ tu Odette được chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.
Thưa anh chị em,
Cử chỉ táo bạo và xem ra như điên rồ của Odette là bằng chứng hùng hồn nhất về lòng tin và tình yêu của cô đối với Chúa Kitô. Và để trung thành tuyệt đối với tình yêu ca cả đó, cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc đẹp và chính đời sống của cô nữa.
“Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”.
Cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa. Những chọn lựa đan thành đời riêng của mỗi người. Đối với người Kitô, chọn lựa là đáp lại tiếng Chúa đang vang lên trong lòng mình từng giây phút trong cuộc sống. Đôi khi nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường chọn mình: sở thích của mình, hạnh phúc của mình, tự do của mình. Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Trong khi Kolbe chọn chết thay cho bạn tù torng trại tập trung Đức Quốc Xã, Cha Đamien chọn hiến thân cho người phong cùi ở đảo Molokai, Mẹ Têrêsa chọn săn sóc cho những người hấp hối ở Calcutta. Và chúng ta hãy chọn cho mình một cách sống để diễn tả niềm tin và tình yêu vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Chọn lựa là phải từ bỏ. Người ta không thể bắt cá hai tay. Người ta không thể phục vụ hai chủ. Cũng không được đặt Chúa ngang hàng “cá mè một lứa” với tất cả những cái khác để chọn lựa. Chúa phải được đặt trên tất cả. Chọn Chúa la phải từ bỏ tất cả những cái khác. Không được coi những liên hệ tình cảm gia đình hơn Chúa. Không được coi tiền của vật chất hơn c. không được coi mạng sống mình hơn Chúa. Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải dành cho Ngài quyền ưu tiên trên tất cả mọi cái khác. Bất cứ điều gì đi ngược lại hoặc ngăn cản quyền chọn lựa ưu tiên đó đều phải bị loại trừ. Không thể đi theo Chúa, nếu chúng ta không yêu Chúa hơn tất cả những người thân yêu của chúng ta, dù là cha mẹ, anh chị em, và yêu Chúa hơn cả chính bản thân mình, hơn cả mạng sống mình nữa: “Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được sự sống” (Lc 9,24).
- Một người con tốt nghiệp Đại học Sư phạm muốn đi phục vụ những con người như bị bỏ rơi ở một nơi xa thành thị, đường đi khó khăn, trắc trở, thiếu thốn đủ thứ, từ cái ăn đến nước uống… Người mẹ khóc lóc cản ngăn, sợ con cực, con khổ…
- Một công nhân làm trong một xí nghiệp. Người công nhân biết rất rõ nội vụ tiêu cực làm thiệt hại nặng nề tài sản của nhân dân. Im lặng để được yênt hân hay tố giác theo tiếng nói của lương tâm, của lẽ phải, nhưng lại liều mình chuốc họa vào thân…
Theo Chúa trong những trường hợp nầy là một thử thách, là thập giá. Nhưng đằng sau thử thách, đằng sau thập giá là cuộc sống mới trong vinh quang.
Anh chị em thân mến,
Khách quan mà nói, lời mời gọi của Chúa Giêsu thật là ngược đời và khó chấp nhận. Những lời đó vẫn làm khó chịu không ít người. Nhưng cũng những lời tuyên bố ngược đời đó vẫn không ngừng lôi cuốn bao người khác dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không biết đâu là giới hạn.
Chúng ta có thể hiểu và sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, khi chúng ta khám phá ra được tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu đó bao la, vô điều kiện, vô vụ lợi. Khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu đó bằng chính cuộc sống đời thường của một con người, thì lúc đó chúng ta mới thấy Chúa Giêsu có lý. Và chúng ta cũng có lý khi dấn thân vào việc thực hiện những hy sinh, từ bỏ. Vì tình yêu và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới có giá trị vĩnh cửu. Nói cách khác, nếu chúng ta yêu Chúa thật sự thì chẳng những chúng ta không ngần ngại mà còn sung sướng được chia sẻ thập gái với Chúa Giêsu. Vui sướng chấp nhận từ bỏ, hy sinh, khước từ của cải, danh vọng, quyền lực, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa thật sự, không giả dối “tình yêu không có hy sinh, chưa phải là tình yêu thứ thiệt”.
Tuy nhiên, thưa anh chị em,
Cần phải suy nghĩ, đắn đo cẩn thận trước khi quyết định theo con đường Chúa Giêsu mời gọi. Vì đây là một chọn lựa hết sức quan trọng. Nó liên hệ đến cả cuộc đời chúng ta. Đã bước chân theo Chúa thì phải theo đến kỳ cùng. Không chấp nhận bỏ cuộc, dừng lại hay thối lui. Theo Chúa cần phải bền gan vững chí đến cùng mới được, như Chúa đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ”.
Theo Chúa không phải là vấn đề của lợi lộc trước mắt mà là vấn đề của tình yêu. Yêu là trung thành. Yêu là cho đi, cho đi từ từ, cho đi mại, cho đi cả mạng sống. Đó mời là tình yêu lớn nhất, xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là biện chứng của Tin Mừng: cho đi là nhận lãnh, quên mình là tìm lại mình, chết là sống, tử nạn là phục sinh muôn đời.
Trong Tin Mừng chúng ta thấy Đức Giêsu không giấu giếm các tông đồ thực tế. Người chỉ rõ những khó khăn, gian khổ và những hy sinh mà Người đòi hỏi nơi những ai đi theo Người. Bằng những lời lẽ rõ ràng, Người nói với họ rằng công việc đó không phải dễ dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền “Ôi chúng tôi đã không bao giờ nghĩ rằng sự việc nó lại như thế này”.
Người ta có thể là một người theo Đức Kitô nhưng không phải là môn đệ của Người. Bởi lẽ người ta có thể đi dân công nhưng không phải là một chiến sĩ của đức vua. Người ta có thể không phải gánh vác nặng nề mà vẫn đóng vai của mình. Người ta chỉ là một người xí phần trong việc lớn. Người ta có thể là người chỉ biết nói giỏi mà không làm.
Một lần nọ, có người đến gần vị giáo sư danh tiếng để hỏi về một thanh niên: “Dù sao xin ông nói cho tôi biết anh ta có phải là một sinh viên của Ông. Đúng không?” và vị giáo sư trả lời: “Anh ấy dĩ nhiên có nghe tôi giảng, nhưng xin ông tin tôi, anh ấy không bao giờ thật sự là sinh viên của tôi”.
Một trong những cản trở to lớn của Giáo Hội là trong Giáo Hội có nhiều người theo Đức Kitô với một khoảng cách an toàn, nhưng rất ít người thật sự là môn đệ, tức là những người đang thực hiện lời Người.
Chúng ta hãy đối diện với điều đó. Là một môn đệ của Đức Kitô không dễ dàng gì. Vai trò môn đệ có một số yêu cầu thực tiễn mà người ta không thể tránh né nếu không muốn phản bội lại Tin Mừng. Tuy nhiên có nhiều người đi nhà thờ một cách thoải mái nhưng ít người quan tâm đến những người khốn khổ, nghèo túng và tiếng rên rỉ của người nghèo. Ngày nay cũng thế, người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ nhiều điều mà người khác coi là việc đương nhiên họ phải có.
Một vài môn đệ tan biến đi khi họ được yêu sách, như tuyết tan dưới mặt trời. Những người khác bị sự chống đối và phê bình tàn phá, giống như ngọn lửa chập chờn bị cơn gió mạnh đầu tiên thổi tắt.
Khi nhà vua Trung Quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi; nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn mười ngàn nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi: “Ngài có bao nhiêu đệ tử?” - “Bốn hoặc năm” Lin Chi đáp.
Đức Giêsu nói rằng muốn đi theo Người, người ta phải suy xét với lương tri bình thường, với sự thận trọng và tính toán cái giá phải trả. Chúng ta không thể gánh vác quá khả năng của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì. Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Chúng ta cần có sự thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.
Chúng ta có thể rút ra từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ phải chiến đấu ở mọi điểm để đi theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại bỏ họ. Chỉ sau khi Đức Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ của Người.
Khi nhìn vào các tông đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người luôn luôn quảng đại với những người cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.
Có những người hoài bão những mục tiêu lớn trong đời, nhưng họ sẽ không bao giờ hoàn thành những mục tiêu ấy. Tại sao lại không? Bởi vì họ không muốn trả giá.
Có một câu chuyện về một cô gái tên Antoinette, cô rất xinh đẹp nhưng rất nghèo. Cô chỉ có một mục tiêu trong đời trở nên giàu có. Hy vọng duy nhất của cô là lấy được một người giàu sang. Nhưng cuộc sống đưa đẩy cô lấy một viên chức nhà nước. Chồng cô cố gắng làm cho cô được hạnh phúc nhưng không thể đáp ứng những điều mà cô mơ ước - quần áo đẹp, nữ trang, một căn nhà với đầy đủ đồ đạc cao cấp, và v.v…
Cô từ chối đi làm ở bên ngoài, và sống những ngày khốn khổ và tuyệt vọng. Cô than phiền rằng vợ chồng cô chưa bao giờ đi đâu. Một lần kia, chồng cô được mời đến dự một bữa tiệc của tiểu bang, nhưng rồi cô lại than phiền cô không có trang phục thích hợp để mặc. Vì thế chồng cô phải gom góp hết tiền tiết kiệm khiêm tốn ở ngân hàng. Với số tiền đó, Antoinette mua được một chiếc áo mới. Sau đó cô còn mượn một chuỗi hạt của một người bạn học cũ tên Marie, rất hợp với chiếc áo mới.
Và thế là cô đã đi dự tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đó và vui hưởng mọi sự chú ý mà cô có được. Tuy nhiên, khi họ về đến nhà vào lúc trời gần sáng, cô kinh hoàng khám phá chuỗi hạt đã mất.
Họ tìm kiếm chuỗi hạt khắp nơi nhưng không tài nào tìm được. Cô không có can đảm nói với Marie sự thật. Vì thế họ mua một chuỗi hạt khác hoàn toàn giống với chuỗi hạt đã mất. Nó giá 40.000 quan Pháp, một món tiền mà họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Khi họ trả chuỗi hạt ấy cho Marie, cô này không bao giờ nhận ra sự khác nhau. Thật vậy, cô ta nhét chuỗi hạt vào ngăn kéo mà không nhìn đến nữa.
Giờ đây Antoinette biết cái nghèo thật sự là gì, nhưng cô quyết định góp phần để trả món nợ của họ. Họ trả lại căn phòng ở tầng trên và dọn xuống tầng hầm. Họ cho cô đầy tớ nghỉ việc. Antoinette tự mình làm việc nhà và còn đi làm việc ở bên ngoài. Họ xin xỏ và dành dụm từng đồng. Họ phải mất mười năm để trả hết món nợ nần. Giờ đây Antoinette trông giống một bà già. Một ngày kia tình cờ cô gặp lại Marie trong đường phố.
“Ôi, sao bạn già đi nhiều thế!” Marie nói.
“Tôi đã trải qua những thời gian rất khó khăn kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, và tất cả là vì bạn”, Antoinette đáp.
“Vì tôi ư? Tôi không hiểu”.
Rồi Antoinette nói với Marie về việc cô đánh mất chuỗi hạt và việc hai vợ chồng cô đã làm việc bấy nhiêu năm để trả lại món tiền. Nghe đến đây Marie nói: “Bạn định nói rằng bạn đã mua một chuỗi hạt bằng kim cương để thế vào chuỗi hạt của tôi?
“Vâng” Antoinette đáp, “và bạn không bao giờ nhận ra đâu”
“Ôi, Antoinette đáng thương của tôi!” Marie kêu lên. “Tại sao lại như vậy, chuỗi hạt của tôi chỉ là một sản phẩm nhái lại. Cùng lắm, nó chỉ đáng giá 400 quan”.
Nếu ngay từ lúc đầu, Antoinette chỉ cần bỏ ra phân nửa nỗ lực cho những gì mà cô mong ước trong đời, thì cô đã có thể đạt được mà không phải phung phí những năm quí giá ấy. Trái lại, cô đã dùng thời gian ấy của cô để nhìn ra cửa sổ và mơ mộng.
Đức Giêsu đã có một mục đích cao cả trong đời, tức là thực hiện sứ vụ mà Cha Người đã giao cho Người, sống vì điều đó và đã muốn trả bất cứ cái giá nào để hoàn thành mục tiêu. Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đang tiến về Giêrusalem. Người đã biết điều gì đang chờ Người ở đó. Đau khổ, sự loại trừ và cái chết đợi sẵn ở cuối cuộc hành trình ấy. Tuy nhiên Người mong muốn đối mặt với tất cả những điều đó.
Và Người mong muốn các môn đệ của Người cũng phải như thế. Người nói về cái giá của việc làm môn đệ. Khi Người nói họ phải ghét cha mẹ mình, Người không định nói theo nghĩa đen. Người nói với họ rằng nếu cần họ phải sẵn sàng hy sinh những vật thân yêu nhất trong đời. Trong một số trường hợp (hiếm hoi), họ phải chọn giữa Người và các người thân của họ.
Hai dụ ngôn ngắn làm nổi bật việc theo Chúa là một ơn gọi nghiêm khắc, nó có thể có ý nghĩa của sự bách hại và chết chóc. Trong lãnh vực này, cũng như trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống (như kinh doanh và chính trị), người ta không thể bước vào một cách mù quáng. Người ta phải tính toán cái giá phải trả trước khi bắt đầu, và rồi xem mình có sẵn sàng đối mặt với nó hay không.
Mục tiêu mà Đức Giêsu đặt ra trước chúng ta thì đáng giá - mục tiêu của một lối sống trung thực ở đời này và của sự sống vĩnh cửu đời sau. Không có mục tiêu nào cao hơn mục tiêu ấy. Điều đó không dễ dàng gì. Không một ai có thể là một môn đệ mà không vác thập giá. Nhưng Đức Giêsu biết sự mỏng giòn của chúng ta. Người rộng ban ân sủng của Người cho những người cố gắng đi theo Người một cách chân thành.
(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Hồi còn trong chủng viện, tôi đã có dịp nghe nói đến bác sĩ Tom Dolay qua bản dịch tập nhật ký sang tiếng Việt có tựa đề là: “Lào Quốc Đèo Heo Hút Gió” ghi lại công việc phục vụ của bác sĩ tại một nơi mà ngày nay chúng ta có thể gọi là “vùng sâu, vùng xa”. Trong khi dấn thân phục vụ anh chị em cùng khổ, bác sĩ Tom Dolay phải chiến đấu với chính thập giá của bản thân mà ông gọi một cách bóng bảy là “ngọn núi cao nhất” của đời ông mà ông đã phải vượt qua, đó chính là căn bệnh ung thư mà ông đang mắc phải. Bác sĩ đã không vượt qua được ngọn núi cao này, đã chịu thua căn bệnh ung thư và qua đời lúc mới 34 tuổi.
Vì muốn sống trọn vẹn hơn đức tin vào Chúa, bác sĩ Tom Dolay đã từ bỏ gia đình, từ bỏ những tiện nghi của một cuộc sống sung túc an nhàn để ra đi phục vụ những con người cùng khổ nơi vùng xa và vùng sâu. Bác sĩ đã thực hiện nơi chính bản thân điều chúng ta vừa đọc trong đoạn Phúc âm hôm nay: “Ai không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em mà đến với Ta thì không thể làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Và không phải là vác trong giây lát, trong lúc cần thiết để biểu diễn cho người khác nhìn thấy mà phải vác hàng ngày, thường xuyên trong âm thầm, không ai nhìn thấy, chỉ mình Chúa biết mà thôi.
Bác sĩ Tom Dolay đã ghi lại trong tập nhật ký như sau: Tôi phải tiếp tục thi hành công tác đang làm như một bác sĩ bao lâu Chúa còn cho tôi thời gian sống ở trần gian này để thực hiện nó. Tôi tiếp tục sống dịu hiền, bởi vì để sống hiền dịu con người phải có can đảm. Giờ đây, đứng trước ngọn núi cao nhất của đời tôi, (tức là chính căn bệnh ung thư mà bác sĩ đang trải qua) tôi còn phải can đảm hơn nữa, mặc dù can đảm đôi khi chỉ là một bài ca buồn. Hy vọng vẫn còn và bất cứ nơi nào còn có người can đảm chiến đấu, tôi không có ý định nằm im chờ chết trên giường bệnh, còn rất nhiều việc phải làm trong thế giới này.
Lần đầu tiên đối diện với thập giá trong tâm thức trần tục trước biến cố Vượt Qua, các tông đồ không hiểu được mầu nhiệm thập giá và dĩ nhiên họ còn lo sợ tránh né. Việc đó đã xảy ra cho Phêrô, ông can gián Chúa đừng lên Giêrusalem để khỏi phải chịu chết trên thập giá. Phêrô đã bị Chúa trách là không suy nghĩ theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa mà theo tâm thức thường tình trần tục.
Thật đúng vậy, nếu nhìn theo phương diện trần tục, xưa cũng như nay thì làm sao con người, mỗi người chúng ta có thể yêu mến thập giá, một hình khổ sỉ nhục dành cho kẻ bị kết án tử hình, bị tước lột mọi quyền lợi làm người.
Thánh Phêrô từ chối và khuyên Chúa không nên đi vào con đường này, nhưng Chúa Giêsu muốn Phêrô và các môn đệ hãy nâng tâm hồn lên, hãy có cái nhìn của Thiên Chúa trước mầu nhiệm thập giá, trước những khổ đau, những thử thách. Cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa được thực hiện nơi chính Chúa Giêsu trong cuộc Vượt Qua của Người. Mối liên hệ sâu xa giữa thập giá và mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa này.
Chúng ta ngày hôm nay cũng như các đồ đệ của Chúa ngày xưa, một khi đã bước theo Chúa mới có thể hiểu được giá trị của thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta. Giá trị của thập giá đó hệ tại nơi mối liên hệ với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, và chúng ta cần vác thập giá trong sự kết hợp với Chúa Giêsu với mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Hay nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng ta cần đưa thập giá của chúng ta vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa: “Tôi bổ túc nơi thân xác tôi những gì còn thiếu nơi mầu nhiệm thập giá của Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và chịu chết vì tôi. Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Đây là một quyết định của người can đảm. Theo Chúa cần can đảm, theo Chúa không phải là một việc làm vì nhẹ dạ, vì xu thời, nhưng là việc làm can đảm sau khi đã suy nghĩ chín chắn. Hãy để cho Chúa Kitô vác lấy thập giá với ta trong cuộc sống hằng ngày, và chỉ với tình yêu kết hợp với Chúa mới có thể giúp ta từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Hay đúng hơn, nói cách khác để yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trong tình yêu Chúa trên hết mọi sự chúng ta mới có thể yêu mến thực sự cha mẹ, anh chị em, của cải, tất cả mọi sự của ta trong tình yêu của Ngài.
Chúng ta nói như đã từ bỏ mọi sự, thật sự chúng ta đặt mọi sự vào đúng vị trí của nó trong tình yêu của Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, và xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được trung thành cho đến cùng là đi trọn con đường như Chúa đã đi, đó là con đường thập giá, và giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh Tin Kính.
(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)
Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ.
Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn.
Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ sau này có làm vua thì cũng là người trần mắt thịt, mà Giới Tử Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh chính thân mình để tỏ lòng trung thành với chủ nhân. Đức Giêsu là Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương chúng ta trước khi cúng ta có mặt trên cõi đời này, lẽ nào chúng ta lại không dám bỏ người thân, của cải, và ngay cả chính mình để bước theo Người?
Lời Chúa trong Tin Mừng hôm nay thật rõ ràng: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14, 26). Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu động từ “dứt bỏ” không có nghĩa là cắt đứt, là từ bỏ, mà là “ít hơn”. Vì tiếng Hy Bá không có thể văn so sánh hơn kém, nên khi cần diễn tả hơn kém người ta dùng lối văn đối ngẫu “yêu và bỏ”. Thánh Matthêu hiểu như vậy nên đã viết: “Ai yêu cha mẹ hơn Thầy, thì không xứng đáng với Thầy” (Mt 10,37).
Vậy ý của Đức Giêsu là nếu ai muốn làm môn đệ Người thì phải đặt tình yêu Chúa lên trên hết mọi thứ tình yêu, hay nói cách khác tình yêu Chúa phải thấm nhuần và hướng dẫn mọi tình yêu: Tình yêu gia đình, bạn bè và ngay cả chính mình.
Như thế, người tín hữu khi đã chọn theo Chúa, làm môn đệ của Người, họ vẫn phải yêu mến người thân, gia đình, bạn bè; họ vẫn phải yêu mến chính bản thân mình; họ cũng phải quí mến của cải như là những ơn lành Chúa ban. Nhưng khi cần thiết thì tất cả những tình cảm đó phải hy sinh cho tình yêu Thiên Chúa. Đó chính là bậc thang giá trị mà người môn đệ nào khi theo Chúa cũng phải đặt lại cho mình.
Nhưng có một cám dỗ rất nguy hiểm này, là Thiên Chúa thì linh thiêng xa vời, mà con người và của cải thì sờ sờ trước mắt, lại hấp dẫn cuốn hút lạ thường, nên người ta dễ đặt lại giá trị ưu tiên lúc nào, mà chính mình cũng chẳng hay biết. Vì thế, Chúa mới cảnh giác qua hai dụ ngôn “Xây tháp” và “Cuộc giao chiến”. Tháp đã khởi công xây dựng, cuộc chiến đã bắt đầu, thì không thể ngồi xuống mà bàn tính. Phải dồn vốn để xây tháp, phải dồn sức mà tấn công. Nhiều người đã khởi công nhưng chẳng thành công, nhiều kẻ đã chiến đấu nhưng không chiến thắng.
Chúa muốn những kẻ theo Người phải trung thành trong tình yêu, và dám sống chết với ơn gọi của mình. Người không chấp nhận “cầm tay mà còn quay lại sau lưng”. Thật vậy, những kẻ “đứng núi này trông núi nọ” thường là những người bỏ cuộc, và những kẻ “bắt cá hai tay” là những người thua thiệt nhiều nhất. Đứng như Pierre Charles đã nói về họ: “Có nhiều kẻ không leo đến đỉnh núi mà lại ngồi an hưởng ở lưng chừng với những tiện nghi tầm thường nhỏ nhoi”.
Lạy Chúa, chúng con đã chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, nhưng biết bao lần chúng con chỉ thấy chọn Chúa là thua thiệt, là hy sinh, là mất mát.
Xin đừng bao giờ để chúng con nản chí, bỏ cuộc, rút lui vì những đòi hỏi gắt gao của tình yêu, nhưng xin cho những thử thách ấy trở nên những cơ hội, giúp chúng con lớn lên trong tình yêu Chúa nhiều hơn. Amen.
Lời Chúa qua đoạn Tin mừng vừa nghe xem ra như có vẻ chói tai và khó chấp nhận.
Thực vậy, theo lẽ thường khi thâu nhận các môn đệ, người taluôn hứa hẹn những điều tốt đẹp, nhưng Chúa Giêsu thì ngược lại, Ngài đòi hỏi những ai muốn làm môn đệ Ngài phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh chị em, thậm chí còn phải “ghét” cả bản thân mình nữa. Rồi lại còn phải từ bỏ của cải trần gian và vác thập giá mình hằng ngày.
Đòi hỏi như thế, phải chăng là quá đáng, không phù hợp với lòng người và cũng không thể thực hiện được?
Con người thời nay bị ảnh hưởng bởi não trạng thực dụng và hưởng thụ, nên rất dị ứng với sự từ bỏ và thập giá.
Vì thế, có người đã coi lời Chúa là lỗi thời và nên để nó chìm vào quên lãng. Có người chỉ muốn tìm trong lời Chúa những gì êm ái, ngọt ngào, dễ nghe và dễ chấp nhận. Có người cố gắng cắt nghĩ lời Chúa sao cho phù hợp với ý riêng của mình để bề dễ thực hiện.
Nhưng thực ra, lời Chúa vẫn là lời Chúa. Lời Chúa như một con dao sắc bén,cắt đứt thịt da và đâm thấu tận tâm can. Lời Chúa luôn có tính cách đòi hỏi con người không được thỏa hiệp, không được nửa nạc nửa mỡ, cũng không được lấp lửng bắt cá hai tay và đi nước đôi, nhưng phải dứt khoát chọn lựa, phải quyết liệt thi hành cũng như phải triệt để dấn thân.
Như thế, lời Chúa có mâu thuẫn với lòng từ bi nhân hậu của Ngài hay không?
Thực vậy, Thánh Kinh cho biết vì yêu thương, Thiên Chúa đã ban cho con người có cha có mẹ, cũng như có anh, có chị và có em để cùng chung sống dướii một mái ấm gia đình. Cũng vì yêu thương, Thiên Chúa đã dựng nên mọi sự cho con người được hưởng dùng.
Nếu vậy thì đòi hỏi từ bỏ có nằm trong chương trình của Thiên Chúa hay không? Nó có mâu thẫun với sự tốt lành của Ngài hay không?
Chắc chắn là không, bởi vì nếu chúng ta tin rằng Ngài là đường, là sự thật và là sự sống, thì chúng ta cũng tin rằng chính Ngài vừa dạy chúng ta phải biết yêu thương và tôn trọng những sự vật trần thế, nhưng đồng thời cũng dạy chúng ta phải biết từ bỏ.
Trong Phúc âm, đề tài từ bỏ cũng được Chúa quan tâm không kém đề tài yêu thương. Và cả hai đều nằm trong chương trình của Ngài.
Thực vậy, vì yêu thương nên mới từ bỏ và từ bỏ để rồi được yêu thương nhiều hơn. Chính Ngài cũng đã làm gương trước cho chúng ta noi theo và bắt chước.
Đúng thế, thánh Phaolô đã diễ tả: vì yêu thương, Đức Kitô đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang để mặc lấy thân phận nô lệ, trở nên giống phàm nhân…Ngài vốn giàu sang, nhưng đã tự ý trở nên nghèo hèn, để lấy cái nghèo hèn của mình mà làm cho chúng ta được trở nên giàu sang.
Rõ ràng sự từ bỏ của Chúa đã được liên kết với tình yêu, một tình yêu luôn muốn sự tốt lành cho người khác. Ngài trở nên nghèo để chúng ta được trở nên giàu. Ngài tự hạ để chúng ta được nâng lên. Ngài đã chết để chúng ta được sống.
Đó là một nghịch lý, một nghịch lý hồng phúc như thánh Phanxicô Assie đã diễn tả:
- Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Vì chính khi thứ tha là khi được tha thứ, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.
Là Kitô hữu, chúng ta không có một con đường nào khác để bước theo Chúa, ngoài con đường từ bỏ, ngoài con đường thập giá. Và đó cũng chính là bí quyết giúp chúng ta đạt tới ơn cứu độ muôn đời.
Bài Phúc âm hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ lại một tư tưởng chính mà Giáo Hội muốn đề nghị mỗi tín hữu Kitô, đó là sự nhất quyết theo Chúa, sẵn sàng chấp nhận những hy sinh để theo Chúa được trọn vẹn. Phúc âm thánh Luca ghi lại như sau:
Chúng ta có thể suy niệm chung bài đọc II và bài Phúc âm trong viễn tượng con người thời đại hôm nay, đó là viễn tượng kính trọng nhân quyền, kính trọng những quyền lợi tự nhiên của mỗi nhân vị. Trước hết, nơi bài đọc II trích từ thơ thánh Phaolô gởi cho ông Philêmôn, để yêu cầu ông này đón nhận lại người giúp việc cũ là Ônesimô, không phải đón nhận lại trong hoàn cảnh như trước, nghĩa là như người giúp việc đã bỏ nhà ông trốn đi, nhưng là một người anh em, vì đã cùng chia sẻ một sự sống với mình, một phẩm vị làm con cái Thiên Chúa như chính ông.
Mối tương quan giữa chủ và người giúp việc, chủ và tớ đã trở thành tương quan mới, tương quan huynh đệ anh em trong đức tin, trong Chúa Giêsu Kitô. Đây là một điều mới mẻ trong xã hội thời các thánh tông đồ, một xã hội còn duy trì tập tục nô lệ. Đây là điều khó có thể thực hiện một cách cụ thể đối với ông Philêmôn, bởi vì ông phải nhận lại một người giúp việc đã bỏ ông ra đi, rồi bây giờ nhận lại không phải như người giúp việc nữa mà như anh em trong Chúa. Không những ông phải tha thứ những lỗi lầm, phiền phức của người giúp việc gây nên khi bỏ ông ra đi, nhưng còn phải vui vẻ tiếp đón như một người ngang hàng, một người anh em cùng một phẩm vị con người như mình. Philêmôn đứng trước một thách thức, một lời mời gọi hãy kính trọng nhân quyền, kính trọng phẩm giá con người. Nếu không có sức mạnh và ơn gọi soi sáng của Chúa thì có thể ông Philêmôn sẽ không thực hiện được.
Chúng ta có thể kết luận ở đây rằng, để kính trọng nhân quyền, kính trọng anh chị em như đồng phẩm vị với mình thì trước hết cần phải kính thờ Thiên Chúa, phải nhờ đến sức mạnh của đức tin Kitô, phải chấp nhận sự hiện diện của Chúa trong đời sống mình. Phong trào kính trọng phẩm vị và quyền lợi của con người sẽ thất bại, nếu không nhờ đến sức mạnh của lòng tin Kitô để đổi mới tâm thức cũng như cư xử của mỗi cá nhân.
Từ bài đọc II chúng ta bước sang bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay: “Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không xứng với Ta”. Nhìn trong viễn tượng kính trọng nhân quyền chúng ta có thể nói xem ra như có sự xung đột giữa quyền lợi của Chúa và quyền lợi của con người khi Chúa Giêsu đã nói: “Ai không từ bỏ cha mẹ, anh em, vợ con mà theo Ta thì không xứng đáng làm môn đệ Ta”.
Quyền con người có cha, có mẹ, có anh em, nói được là quyền lợi tự nhiên của con người, thế mà Chúa Giêsu đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ để theo Ngài, đặt quyền lợi của Ngài trên chúng ta. Phải chăng đây là sự xung đột không thể chấp nhận được? Nhưng sự xung đột đây không phải là sự xung đột thật, đây chỉ là xếp đặt thứ tự trước sau mà thôi. Quyền lợi của Thiên Chúa là điều trước nhất, cần đặt Thiên Chúa vào chỗ đứng thứ nhất trong đời sống chúng ta, để rồi nhờ đó mà chúng ta mới có thể chu toàn những quyền lợi của mình. Thiên Chúa là bạn của sự sống, là bạn của con người, Ngài không ganh tị với con người khi con người được điều tốt lành.
Quan niệm lệch lạc của con người về Thiên Chúa như là một đấng hay ganh tị của con người, quan niệm lệch lạc này không phải là quan niệm Kinh thánh về Thiên Chúa. Thiên Chúa chân thật được mạc khải trong Kinh Thánh là một vị Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được triển nở hoàn toàn tốt đẹp nhân cách của mình, để được sống hạnh phúc. Con người lỗi lầm làm hại phẩm giá mình, xúc phạm đến Thiên Chúa thì Ngài không dùng mọi phương thế để phục hồi phẩm vị làm người cho con người, đến độ Ngài ban Con Một Mình xuống chịu chết thay cho con người để nâng con người lên. Một vị Thiên Chúa như vậy, một khi được con người chấp nhận tôn thờ, đặt vào chỗ đứng thứ nhất thì sẽ giúp con người phát triển hơn là đè bẹp con người.
Kính trọng quyền lợi của Thiên Chúa, yêu mến Ngài trên hết mọi sự, đó là con đường hữu hiệu nhất để kính trọng nhân quyền. Kính trọng con người, yêu thương anh chị em như Chúa đã yêu thương đến độ chấp nhận hy sinh cho người mình thương, đó là điều khó. Mỗi người chúng ta cần suy nghĩ cho nghiêm chỉnh khi dấn bước theo Chúa, chúng ta có thật sự muốn theo Chúa, muốn làm người Kitô đích thực chăng? Đó là vấn đề mà mỗi người chúng ta cần phải điều chỉnh lại để việc dấn thân theo Chúa của chúng ta mỗi ngày được trọn vẹn hơn.
Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều kiện đó, là phải từ bỏ tất cả: của cải, cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính bản thân mình. Đó là điều kiện gắt gao, cho nên cần phải tính toán, suy xét thật cẩn thận. Điều kiện này không phải Chúa chỉ nói với các môn đệ mà với tất cả đám đông đang nghe Chúa giảng dạy. Và như vậy đây là điều kiện cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoàn cảnh của nền văn minh vật chất hiện nay.
Trước hết, Chúa Giêsu cho biết: muốn đi theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như vinh quang và của cải trần gian này. Đây là một đòi hỏi mang tính chất khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: Cũng như người muốn xây tháp hay xây nhà: trước khi xây phải tính toán cẩn thận: có xây hay không? Xây lúc này hay xây lúc khác? Xây ở đâu? Để làm gì? Rồi vấn đề tiền bạc, công thợ, vật liệu thế nào? Có giải quyết được những vấn đề đó mới nên khởi công, bằng không thì thôi. Thà đừng xây còn hơn là xây rồi mà bỏ dở dang. Cũng vậy, một ông vua hay một ông tướng sắp lâm trận, phải biết lượng sức mình, đánh giá đúng khả năng của mình: so đo lực lượng hai bên, phải biết tinh thần quân sĩ, phải nắm vững tình thế: thiên thời, địa lợi, nhân hòa… Có nắm vững được những yếu tố thuận lợi cho mình mới nên cất quân đi đánh giặc, bằng không phải tính toán cách khác, kẻo cất quân đi đánh mà bị thua thì vừa mất quân vừa thiệt hại.
Những người muốn đi theo Chúa cũng vậy, phải biết tính toán cẩn thận và chọn lựa dứt khoát. Tại sao vậy? Bởi vì con đường theo Chúa là con đường từ bỏ: từ bỏ hết, từ bỏ tất cả, từ bỏ hoàn toàn. Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn xây tháp, xây nhà phải có tiền. Muốn thắng trận, phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Từ bỏ tất cả để theo Chúa, nghĩa là coi Chúa hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa mà thôi.
Điều kiện này có khó quá không? Dĩ nhiên là khó. Nhưng không phải là không thực hiện được. Bằng chứng là các tông đồ Chúa kêu gọi, các ông mau mắn, dứt khoát đi theo Chúa, dù phải bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Tiếp theo các tông đồ, từ xưa cho đến nay, biết bao nhiêu người đã sống đời tận hiến, bước đi theo Chúa trong ơn gọi linh mục, tu sĩ, cống hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân… Có biết bao người đã sẵn sàng chịu đau khổ, thử thách và hy sinh cả mạng sống vì danh Chúa Kitô như các thánh tử đạo.
Nhưng đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, vợ con, nghề nghiệp để đi tu. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết từ bỏ mình. Từ bỏ mình không có nghĩa là hành hạ mình, nhưng là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu của ý chí, những lời nói cay chua của cơn tức giận, những tư tưởng kênh kiệu độc đoán của thái độ tự phụ bất chính. Nói khác đi, từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si. Tham là tính tham lam: tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau. Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác. Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa, còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát. Đối với nhà Phật, phải diệt tham lam, diệt sân nộ, diệt mê si. Diệt là dứt bỏ, dứt bỏ dần dần và rồi hủy bỏ dứt khoát. Đối với chúng ta là từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý thích ý muốn của mình khi điều đó trái với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm: sống là lựa chọn, mà lựa chọn tức là từ bỏ những cái mình không chọn. Thái độ từ bỏ và dứt khoát đó lại càng cần đối với việc chọn Chúa, chọn nước trời, chọn những việc đẹp lòng Chúa và làm chứng cho Chúa. Bấy lâu nay chúng ta có thái độ dứt khoát đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và cũng tiếc rẻ tất cả? Bấy lâu nay có phải chúng ta đã theo Chúa để tìm lợi cá nhân, tiền bạc, danh vọng hoặc địa vị và một số những cái lỉnh kỉnh khác, chứ thực sự chưa có thái độ lựa chọn dứt khoát vì Chúa, vì tình thương, vì tình người, vì nước trời… có phải vậy không?
Trong xã hội chạy theo văn minh vật chất và thích hưởng thụ này, có những người giàu, có chức vị, có tiền của, có nhiều phương tiện, nhờ có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, đã biết lợi dụng những cái đó để làm ích cho kẻ khác, để xây dựng công ích, để mở Nước Chúa. Trái lại, cũng trong hoàn cảnh như vậy, kẻ không có tinh thần từ bỏ, quên mình, thì đã lợi dụng của cải, tiền bạc, tự do, tiện nghi, để hưởng thụ cho chính bản thân mình, đã không làm lợi cho kẻ khác, cho Hội thánh, cho đồng bào, cho đất nước… Chúng ta vào số người nào?
Để từ bỏ được chính mình như thế, cần phải có thật nhiều ơn Chúa và một sự can đảm vô bờ. Vì khi từ bỏ là chúng ta sẽ cảm thấy như bị thua thiệt rất nhiều ở đời này. Vì thế, từ bỏ được mình, quên mình, nói thì dễ nhưng thực hành thì không dễ dàng, nếu không có ơn Chúa trợ giúp thì không ai có thể thực hành được. Cho nên, chúng ta phải cầu xin Chúa và cố gắng rất nhiều.
Nếu có dịp đọc kỹ các sách Tin Mừng chúng ta thấy: Một trong những đòi hỏi dường như khó khăn nhất của Chúa Giêsu đối với những môn đệ hay những kẻ theo Ngài có lẽ là việc từ bỏ. Quả thật, từ bỏ một ít, hay từ bỏ những cái phụ thuộc bên ngoài xem ra còn dễ, nhưng trong bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu đòi hỏi những ai theo Ngài không những phải từ bỏ những tình cảm sâu xa nhất, tình nghĩa ruột rà máu mủ, mà còn phải từ bỏ cả chính bản thân của mình: “Kẻ nào đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em mình và cả mạng sống mình nữa, ắt không thể là môn đệ của Ta”. Chắc hẳn đây là một thách đố rất lớn và thật khó hiểu đối với mỗi người chúng ta, mặc dù chúng ta là những người đã dấn thân theo Đức Kitô. Thế thì chúng ta phải hiểu lời Chúa Giêsu nói hôm nay như thế nào?
Trước tiên, chúng ta thấy những lời Chúa Giêsu nói hôm nay được lồng vào cuộc hành trình lên Giêrusalem, và bằng một động tác có tính biểu tượng, Đức Giêsu “quay lại” phía đám đông cùng đi đường để dạy họ bài học về điều kiện phải có để làm môn đệ Ngài.
Thật vậy, chỉ đến với Đức Giêsu thôi chưa đủ. Đi theo Ngài bao gồm phải chấp nhận để cho những đòi hỏi triệt để của Tin Mừng khuấy động lối sống của chúng ta: cách riêng trong phạm vi những mối liên hệ gia đình, và sử dụng của cải vật chất là đề tài quen thuộc của Luca. Ở đây, chúng ta sẽ nói tới “liên hệ gia đình”.
Về vấn đề này, Đức Giêsu tuyên bố không úp mở: Những ai đến với Ngài mà không ghét bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em, và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ngài. Ở đây, Luca dùng động từ Hy Lạp có nghĩa là “ghét bỏ” để diễn tả một lối nói nguyên thủy bằng tiếng Aram, một thứ ngôn ngữ vốn không có từ so sánh. Một kiểu nói mạnh mà soạn giả Tin Mừng dịch là dứt bỏ, hay “thương ít hơn”. Như thế từ ghét bỏ ở đây không có nghĩa thù ghét, loại trừ như chúng ta quen dùng, nhưng ghét bỏ ở đây có nghĩa là “thương ít hơn”. Thánh Matthêu nói cách rõ ràng hơn: “Kẻ nào yêu cha mẹ, yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta”.
Như vậy tất cả những mối liên hệ của nhân loại dù chính đáng và thâm sâu đến đâu, ngay cả đến mạng sống con người đi nữa, đều phải phụ thuộc vào mối liên hệ của họ với Đức Kitô.
Hiểu như thế, chúng ta thấy việc từ bỏ để đi theo Đức Kitô không phải là gánh nặng, không phải là một sự liều lĩnh đến nỗi phải đi ngược lại với tình cảm tự nhiên vốn có nơi con người. Điều Đức Giêsu đòi hỏi ở đây là phải dành cho Người địa vị ưu tiên hàng đầu, ưu tiên số một, nghĩa là phải yêu mến Người hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn. Đòi hỏi của Đức Giêsu ở đây không cho phép chúng ta xem nhẹ những liên hệ gia đình, liên hệ giữa người với người, nhưng Ngài muốn kêu gọi mỗi người chúng ta phải nuôi dưỡng và đến với tất cả những tình cảm đó xuyên qua tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa.
Như thế, trở lại với cuộc sống đời thường, mỗi người Kitô hữu chúng ta cần có thái độ như thế nào và tâm tình gì trước lời mời gọi của Chúa Giêsu hôm nay?
Chúng ta biết rằng: Kitô hữu là những người đã chọn con đường bước theo Đức Giêsu, chấp nhận đi theo Ngài là chấp nhận đi vào con đường hẹp, con đường từ bỏ. Ngài đòi hỏi chúng ta đặt mọi sự dưới Ngài, yêu Ngài trên hết mọi sự, trên những người thân yêu, trên cả của cải, tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại và tương lai. Những điều này thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người. Kitô hữu là người phải sống từ bỏ như Đức Giêsu: “Ngài vốn là Thiên Chúa nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế”. “Ngài đã vâng phục ý Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết ô nhục trên thánh giá: “Nếu có thể được thì xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý con, một xin vâng ý Cha”.
Ngoài ra khi nhìn vào lịch sử Giáo Hội, chúng ta thấy có biết bao tấm gương khác đã đi trọn con đường từ bỏ này: một Phanxicô Assisi, một con người có thể nói được là sống trên nhung lụa, nhưng đã từ khước tất cả, cả ý định của người cha, và cuối cùng dám lột bỏ cả y phục của mình trả lại người cha để bước theo tiếng gọi của Đức Giêsu. Hay là như một Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng vượt qua biết bao khó khăn gian khổ, để theo đuổi lý tưởng tận hiến cho Đức Kitô, và cuối cùng đã trở thành một vị đại thánh của Giáo Hội. Gần và cận kề chúng ta hơn có lẽ phải nói tới vị anh hùng tử đạo Việt Nam, thánh Nguyễn Hy Mỹ, trước tòa án Nam Định, các quan dùng tình nghĩa vợ chồng con cái để làm lung lạc tình yêu ngài, nhưng vị tử đạo trả lời: “Vợ con tôi, tôi yêu thật, song tôi còn hy vọng sum họp với gia đình thân yêu trên thiên đàng”.
Tất cả mỗi người chúng ta đang hiện diện nơi đây, chắc chắn mỗi người có hoàn cảnh riêng, khả năng riêng, và một sở thích riêng… không ai giống ai, nhưng mỗi người chúng ta đều được Thiên Chúa mời gọi để dấn bước theo Ngài. Chắc chắn Chúa không đòi hỏi chúng ta làm gì vượt quá sức của chúng ta. Điều mà Thiên Chúa muốn mỗi chúng ta hãy sống tốt giây phút hiện tại của đời mình trong tương quan với thế giới, và với mọi người xung quanh xuyên qua tình yêu của Ngài.
Cầu chúc tất cả anh chị em luôn sống trong tình yêu Chúa, và lấy Chúa làm đích điểm cho đời mình, để trong cuộc sống hằng ngày, mỗi người chúng ta có thể thốt lên như lời của thánh tông đồ Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”.
Ai cũng được mời gọi trở thành môn đệ Đức Giêsu, nhưng không phải ai cũng là môn đệ Ngài. Để trở thành môn đệ của Chúa, phải chọn Thiên Chúa và từ bỏ những gì trái với Ngài.
Từ bỏ chính mình
Đám đông đi theo Đức Giêsu, nhưng không phải tất cả là môn đệ của Ngài: “nếu ai đi theo tôi mà không từ bỏ chính mình, thì không thể theo tôi được”.
Từ bỏ chính mình, là cách nói khác của thái độ chọn Chúa trên tất cả. Không có sự trái nghịch giữa giữa việc đi theo Chúa và đạo hiếu, vì giới răn thứ tư Chúa dạy: “thảo kính cha mẹ”; nhưng giả như cha mẹ hay bất kỳ ai đó có những đòi hỏi trái với luật Chúa, thì phải chọn Thiên Chúa trên tất cả. Thiên Chúa không muốn con người phải chết, nhưng muốn con người được sống và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; nhưng giả như có trường hợp phải chọn giữa Thiên Chúa và mạng sống mình, chẳng hạn như trường hợp bách hại đạo, thì phải chọn Thiên Chúa trên cả mạng sống mình.
Chọn Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả. Chọn Chúa, là yêu thương cha mẹ thật sự, là giữ đạo hiếu tuyệt hảo. Thí dụ, cha mẹ của một ai đó ép con mình lấy người nó không yêu không thương; thì theo đạo hiếu “thiển cận”, người con phải vâng lời lấy người cha mẹ muốn; nhưng nếu chỉ một thời gian ngắn sau cha mẹ người đó chết mà người con phải sống khổ cả đời vì đã vâng lời cha mẹ lấy người mình không thương yêu, thì nếu cha mẹ người đó biết con mình không sống hạnh phúc, chắc cha mẹ đã không ép con mình làm như vậy; nên trong trường hợp này không làm theo ý cha mẹ, là có hiếu hơn nghe theo lời cha mẹ. Nói như vậy, không có nghĩa là coi thường ý kiến của cha mẹ về vấn đề hôn nhân cho con cái. Con cái phải trân trọng ý kiến của cha mẹ, vì thường cha mẹ chỉ muốn cho con cái mình hạnh phúc; nhưng giả như có trường hợp khác, thì phải chọn Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn tôi làm điều đúng, và Ngài muốn tôi sống hạnh phúc.
Chấp nhận chính mình
“Ai không vác thập giá mình mà theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi”. Con người, ai cũng có những giới hạn.
Chẳng hạn, một người không được thông mình như chúng bạn mình, một người không đẹp như bạn mình, một người có một tật nào đó về thể lý hoặc tinh thần. Nếu con người không chấp nhận chính mình, luôn càm ràm Thiên Chúa “tại sao Chúa dựng nên con xấu như vậy, tại sao con lại không được thông mình bằng người khác, tại sao răng của con như vậy, tại sao mắt của con như vậy,…”, muốn làm “tài khôn” cho Chúa, thì người đó không thể làm môn đệ của Chúa được. Chấp nhận con người mình, chấp nhận những giới hạn của mình, đó là vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu. Chấp nhận con người mình như mình là, đã là vượt qua chính mình và nên thánh từng ngày rồi. Phaolô cũng có một cái dằm đâm vào xác thịt, và ngài đã ba lần xin Chúa cất cái dằm đó khỏi mình, nhưng Thiên Chúa phán “ơn ta đủ cho con” (2 Cor.12, 7-9).
Chấp nhận chính mình, là chấp nhận để Thiên Chúa làm tất cả những gì Ngài muốn trên mình. Đó là thái độ cần thiết để một người có thể sống hạnh phúc trên trần gian này. Nếu ai không hài lòng với chính mình, không nhận ra được gì hay nơi con người mình để tạ ơn Chúa, thì thật bất hạnh cho người đó.
Chấp nhận tha nhân trong yêu thương
Thiên Chúa là nhất đối với Phaolô. Con người là một giá trị tuyệt vời đối với Thiên Chúa và đối với con người. Trở nên con Thiên Chúa qua bí tích rửa tội, là một hồng ân vô cùng lớn mà không gì có thể so sánh và mua được.
Onesimus, người nô lệ của Philemon đã được ơn trở lại qua Phaolô. Phaolô chấp nhận Onesimus như một người với tất cả giá trị của con người, cho dù người đời có phân biệt nô lệ và tự do. Phaolô mời gọi Philemon, người môn đệ của mình, nhận ra và chấp nhận phẩm giá của Onesimus, và đối xử với Onesimus, người nô lệ của mình, như người anh em trong Chúa. Để làm được điều này, Philemon phải chọn Chúa trên hết, coi trọng người tông đồ đã rao giảng Lời Chúa cho mình, đặt nhẹ lợi lộc trần gian, và nhận ra giá trị đích thực của con người không tựa vào nô lệ hay tự do theo kiểu trần thế.
Chọn Thiên Chúa trên tất cả, chấp nhận con người của mình như mình là, từ bỏ tất cả thậm chí cả bản thân mình, là điều kiện của người môn đệ Đức Giêsu. Xin cho chúng ta được ơn trở thành môn đệ Đức Giêsu trong cuộc sống.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Có sự xung đột giữa những bổn phận đối với Thiên Chúa, cha mẹ và vợ chồng không? Xin bạn cho thí dụ và chia sẻ cái nhìn của bạn?
2. Bạn có đồng ý với quan điểm “chọn Thiên Chúa trên tất cả, sẽ được tất cả” không? Đâu là quan điểm của bạn?
3. Liệu con người có thể từ bỏ chính mình được không? Tại sao?
24. Vác thập giá mình mà đi theo Đức Giêsu
Câu hỏi gợi ý:
1. Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả (kể cả cha mẹ, và những người thân yêu nhất). Từ bỏ như thế thì làm sao sống được trên đời? Làm sao tránh được tiếng bất hiếu, vô tình vô nghĩa? Cần phải hiểu hai chữ «từ bỏ» theo nghĩa nào?
2. Tại sao Đức Giêsu lại yêu cầu những người theo Ngài phải lượng sức mình: có từ bỏ tất cả mọi sự được thì hãy theo, không thì thôi?
3. Không lượng sức mình mà cứ theo Chúa, thì đã sao? Có tai hại gì đâu? Khối người theo Chúa có phải từ bỏ gì đâu, họ còn được thêm là đằng khác?
Suy tư gợi ý:
1. Muốn làm môn đệ Chúa, phải từ bỏ tất cả
Bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nói lên một cách quả quyết, rõ ràng và dứt khoát là: muốn theo Ngài, muốn làm môn đệ Ngài, phải sẵn sàng từ bỏ tất cả: người, vật, ý riêng, thậm chí những người thân yêu nhất như cha mẹ, vợ con, và ngay cả bản thân hay mạng sống mình nữa. Sự rõ ràng và dứt khoát ấy trở nên rất rõ nét nhờ hai dụ ngôn về một người muốn xây nhà và một ông vua muốn chiến đấu. Muốn xây nhà thì phải dự tính xem có đủ tiền không, kẻo đang xây dở dang mà hết tiền, thì sẽ không có nhà ở! Hai dụ ngôn này nhấn mạnh rằng nếu có ý định theo Chúa, thì cần phải lượng sức mình trước, xem mình có thể từ bỏ được như Chúa đòi hỏi không. Nếu không được, thì hãy từ bỏ ý định theo Chúa, kẻo sau đó bị dở dang «thầy không ra thầy, thợ không ra thợ», lỡ việc, lỡ cả cuộc đời, và có thể lỡ cả đời sau.
2. Cần phải hiểu «từ bỏ» theo hai nghĩa
Khi Đức Giêsu đòi hỏi những người theo Ngài phải từ bỏ, điều ấy không có nghĩa là những kẻ theo Ngài luôn luôn phải rời xa cha mẹ, vợ con, và sống như người không có gì. Hiểu theo nghĩa đen như thế không hẳn là sai, nhưng chỉ đúng với ơn gọi của một số ít người. Từ bỏ ở đây nên hiểu theo nghĩa tinh thần nhiều hơn. Nghĩa là người theo Chúa cần phải có tinh thần từ bỏ. Có tinh thần từ bỏ là luôn luôn coi Chúa và những việc của Chúa là quan trọng hơn tất cả mọi sự khác, nên sẵn sàng hy sinh những cái không quan trọng cho cái quan trọng khi thực tế đòi buộc như vậy. Từ bỏ không phải là không quí những điều mình từ bỏ, mà là không quí bằng một cái khác quí hơn, nên sẵn sàng hy sinh cái quí nhỏ cho cái quí to. Mạng sống, cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa, ruộng vườn… đều là những thứ mà người theo Chúa phải quí trọng, thậm chí rất quí, nhưng đối với người theo Chúa, thì phải coi tất cả những thứ đáng quí ấy không quí bằng việc thực hiện Nước Thiên Chúa.
Và khi đã có tinh thần từ bỏ, thì tinh thần ấy sẽ được thể hiện thành hay hành động từ bỏ. Nếu những hành động từ bỏ không phát xuất từ tinh thần từ bỏ thì không có giá trị lắm. Tuy nhiên, nếu tinh thần từ bỏ mà không được thể hiện thành những hành động từ bỏ cụ thể, thì chắc chắn đó không phải là tinh thần từ bỏ đích thực.
3. Phải lượng sức mình khi theo Chúa
Có thể Chúa không đòi hỏi tất cả mọi người phải có tinh thần từ bỏ như thế. Nhưng Ngài đòi hỏi những ai theo Ngài phải có tinh thần ấy. Vì thế, trong hai dụ ngôn của bài Tin Mừng hôm nay, Chúa yêu cầu những ai theo Ngài phải lượng sức mình xem mình có thể có được tinh thần từ bỏ như vậy không. Nếu không có, thì đừng theo Ngài, Ngài không trách phạt những người bình thường nếu họ không có tinh thần ấy. Nhưng Ngài sẽ trách phạt những ai theo Ngài mà lại không có tinh thần từ bỏ ấy. Chính vì thế, mà cần phải lượng sức mình kẻo có hại cho sự phát triển hay vinh quang của Nước Chúa, đồng thời cho chính bản thân mình.
Rất tiếc là tinh thần từ bỏ này chưa được đặt nặng đúng mức nơi những người mang danh là theo Chúa. Trong nhiều Giáo Hội địa phương, những người mang danh theo Chúa lại được nhiều đặc quyền đặc lợi hơn những người bình thường (được hết sức kính trọng vì danh nghĩa là người theo Chúa chứ không vì tài đức bản thân, dễ dàng có quyền hành, địa vị, chức tước, tiền bạc hơn người bình thường…) Vì thế, có biết bao người theo Chúa vì những động lực trần tục ấy. Theo Chúa, thay vì từ bỏ hay mất đi nhiều thứ mình đang có, thì lại có thêm hay chiếm hữu được nhiều thứ mình chưa có. Do đó, với tinh thần chiếm hữu thay vì từ bỏ, những người mang danh theo Chúa ấy không thể thực hiện được những bổn phận hay trách nhiệm mà những người theo Chúa phải gánh vác trong những hoàn cảnh cụ thể mà Nước Chúa đòi buộc (chẳng hạn phải tranh đấu cho người nghèo, cho người bị áp bức, chống lại sự ác, bất công…) Họ không dám từ bỏ, không dám dấn thân, không dám hy sinh trong những việc đòi hỏi họ phải chấp nhận nguy hiểm đến mạng sống, đến sự an toàn bản thân, đến danh dự, đến quyền lợi… Đương nhiên họ vẫn có thể hy sinh trong những việc nhỏ, miễn sự hy sinh ấy đừng lớn hơn cái lợi trần gian họ đạt được. Cũng như một người đi buôn sẵn sàng hy sinh tiền bạc, công sức để thu vào một cái lợi lớn hơn.
Những người theo Chúa kiểu ấy sẽ rất bỡ ngỡ vào ngày sau hết, khi Chúa bảo họ: «Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!» (Lc 13,27). Và lúc ấy họ sẽ lên tiếng thắc mắc: «Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi» (Lc 13,26). Hoặc «Nào chúng tôi đã chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?» (Mt 7,22). Chính vì thấy trước viễn tượng ấy, mà Đức Giêsu đã yêu cầu những ai muốn theo Chúa phải lượng sức mình. Nếu không thể từ bỏ mọi sự được như thế (nên hiểu theo nghĩa tinh thần), thì nên rút lui sớm kẻo vừa hại cho Nước Chúa vừa hại cho phần rỗi của mình.
4. Một đề nghị
Trong các Giáo Hội Á châu, việc Giáo Hội khuyến khích giáo dân tôn kính và dành nhiều đặc quyền đặc lợi cho những người theo Chúa có rất nhiều điều hay, nên làm, nhưng thiết tưởng cũng nên ý thức và quan tâm tới mặt trái của nó để hành xử cho khôn ngoan. Sự tôn trọng của giáo dân và những đặc quyền đặc lợi mà Giáo Hội dành cho những người theo Chúa có thể khiến cho những Ki-tô hữu không có tinh thần siêu nhiên, sẽ theo Chúa không phải vì Chúa, vì Giáo Hội hay các linh hồn, mà vì một động lực trần tục.
Thật vậy, nếu những ai mang danh theo Chúa mà lại được tôn kính, trọng vọng một cách mặc nhiên bất chấp họ có xứng đáng hay không; nếu những điều kiện sinh sống của họ cũng mặc nhiên trở nên dễ dàng gấp bội so với những giáo dân bình thường chỉ vì họ mang danh hiệu đó mà thôi, thì việc mang danh theo Chúa sẽ trở nên rất hấp dẫn đối với những ai thiếu tài đức nhưng lại ham muốn trèo cao và muốn có điều kiện sống dễ dàng hơn mọi người mà đỡ vất vả. Nếu những điều kiện để được mang danh là theo Chúa lại dễ dàng hơn những điều kiện để mang những danh hiệu khác ngoài đời, thì số người «muốn theo Chúa» với động lực trần tục sẽ đông lên gấp bội. Điều ấy sẽ ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng của những người mang danh theo Chúa. Nếu những người theo Chúa vì động lực trần tục chiếm đa số, thì thật là tai hại cho Giáo Hội. Họ sẽ không thể dấn thân thật sự cho Giáo Hội khi Giáo Hội cần đến sự dấn thân ấy. Giáo Hội sẽ đầy gương xấu đến từ giới được coi là ưu tú nhất, và bị đình trệ không phát triển được. Và những người muốn theo Chúa thật sự (chiếm thiểu số) sẽ nản lòng và sẽ chẳng hoạt động hữu hiệu được, thậm chí sẽ không muốn vào, mà lại muốn ra khỏi hàng ngũ ấy để … khỏi bị thiên hạ đánh giá kiểu «cá mè một lứa»!
Vì thế, những người hữu trách trong Giáo Hội nên tìm cách tránh cho Giáo Hội tình trạng đồ giả lan tràn như ngoài đời. Làm đồ giả vừa thực hiện dễ dàng lại vừa kiếm được nhiều lợi nhuận hơn làm đồ thật, nên thị trường tràn lan đồ giả. Đồ giả càng tinh vi thì bên ngoài càng giống đồ thật, thậm chí nhiều loại đồ giả còn «có vẻ thật» hơn cả đồ thật. Đương nhiên chất lượng của đồ giả thì luôn luôn kém cỏi. Nếu không có biện pháp xử lý khôn ngoan, thì trong Giáo Hội cũng có thể lan tràn những người có vẻ theo Chúa, nghĩa là theo Chúa một cách «hữu danh vô thực», không có tinh thần «từ bỏ» làm bảo chứng.
Cầu nguyện
Lạy Cha, xin ban cho Giáo Hội ngày càng tăng số người muốn theo Cha thật sự, nghĩa là những người sẵn sàng chấp nhận tinh thần từ bỏ mà Cha đòi hỏi và mong muốn. Xin cho chúng con dù là giáo dân hay giáo sỹ, cũng có tinh thần từ bỏ đích thực để xây dựng Nước Thiên Chúa tại trần gian, đặc biệt trên quê hương con. Amen.
25. Điều kiện làm môn đệ Chúa Kitô_ Lm. Vũ Thái Hoà
Trong bài Tin Mừng hôm nay, tuy ngắn, nhưng có một câu được lập lại ba lần: “thì không thể làm môn đệ tôi được”. Lời tuyên bố trên của Đức Giêsu hướng dẫn bài suy niệm của chúng ta hôm nay về những điều kiện phải có để trở thành môn đệ của Người.
“Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa... Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được.”
Đây là một trong những đoạn Tin Mừng khó hiểu và khó nghe: làm thế nào để dung hòa được tình yêu bao la của Thiên Chúa với sự tàn nhẫn của đoạn văn vừa nghe mà chúng ta phải loan báo như một Tin Mừng? Làm thế nào để dung hòa được lòng nhân hậu của Đức Giêsu với những lời tuyên bố làm cho chúng ta liên tưởng đến một số đầu óc bè phái phải từ bỏ ý muốn riêng để nghe theo một cách mù quáng thủ lãnh của mình?
Để dung hòa những điều trên có vẻ mâu thuẫn, chúng ta cần phải hiểu thế nào là đi theo Đức Giêsu, để trở nên môn đệ Người. Câu tuyên bố của Đức Giêsu, chúng ta không nên hiểu theo nghĩa đen, nhưng theo nghĩa bóng. Chúa không bảo chúng ta ích kỷ, coi thường cha mẹ, vợ, chồng, con cái, anh chị em mình và bao điều tốt đẹp khác! Chúa cũng không muốn chúng ta chểnh mảnh bổn phận đối với gia đình và xã hội. Chính Đức Giêsu đã nhắc lại điều răn thứ bốn Thiên Chúa: “Ngươi hãy thờ cha kính mẹ” (Mt 15:4).
Từ bỏ mọi sự để theo Chúa không có nghĩa là từ bỏ hạnh phúc của mình. Chúa muốn những ai theo Người phải biết đặt bậc thang giá trị trong tình yêu: yêu Chúa trước nhất, rồi sau đó mới đến các tình yêu khác; tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa phải là nguồn mạch các liên hệ tình cảm khác. Một khi đã gắn bó mật thiết với Chúa Kitô thì hẳn nhiên chúng ta sẽ có một thái độ khác đối với các liên hệ gia đình, bạn bè và xã hội, đối với của cải vật chất và đối với chính mạnh sống của mình.
Hai dụ ngôn “xây cây tháp” và “cuộc giao chiến” cho chúng ta biết thế nào là dấn thân theo Chúa Kitô. Không ai khởi sự xây nhà nếu biết mình không đủ vật liệu để hoàn tất. Một ông vua không nên đi giao chiến nếu biết quân địch đông và mạnh gấp đôi quân của mình. Đời sống Kitô hữu giống như một cuộc xây dựng phải hoàn thành, và đồng thời giống như một cuộc giao chiến trường kỳ. Hai công việc khó khăn nhưng rất quan trọng nầy đòi hỏi sự suy nghĩ chín chắn và kiên trì.
Chúng ta thường làm tổng kết cuối năm, biết tính toán và dự kiến cho những công việc loài người, nhưng chúng ta có biết thỉnh thoảng ngồi lại một mình hoặc với người khác, để suy nghĩ, kiểm điểm đời sống đạo đức, để phân định được những hành động của mình có đúng với giáo huấn của Chúa Kitô hay không? Đó là mục đích của các cuộc tỉnh tâm (Linh thao, Cursillo, v...v...).
Tùy theo ơn gọi riêng của mỗi người, tất cả chúng ta đều được kêu mời bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ Người, vì chỉ có Người mới có thể đem lại niềm vuui, bình an và hạnh phúc thật sự.
26. Suy Niệm Chúa Nhật 23 Thường Niên
(Trích dẫn từ ‘Tin Vui Xuân Lộc’)
Làm sao đồng hành với Chúa Giêsu, làm sao dám tự xưng là môn đệ của Ngài khi không yêu mến Ngài “hơn” tất cả mọi sự, kể cả mạng sống mình? Đó là một sự lựa chọn đòi nhiều dấn thân, một sự lựa chọn đầy khó khăn mà người ta không thể thực hiện một cách hời hợt. Làm sao có thể sống sự sống của Đức Kitô mà không để tình yêu của Ngài đảo lộn các mối tương quan xã hội của chúng ta đến chỗ tiếp nhận một người nô lệ như một người anh em yêu quý? Chỉ có Thánh Thần mới có thể mở rộng tâm hồn chúng ta trước những đòi hỏi của tin mừng để cho chúng ta hiểu biết đường lối và Thánh ý của Chúa.
Kn 9,13-18
Người Hi lạp coi sự Khôn Ngoan như là kết quả của cố gắng con người; còn người Do thái lại coi đó là hoa trái ơn ban của Thiên Chúa dành cho người mở rộng tâm hồn đón tiếp Người. Thánh Phaolô sẽ có một suy tư tương tự, đã không ngần ngại nói rằng cách thức hoạt động của Người là điều điên rồ đối với lòai người, không thể hiểu được đối với những người tự cho có thể đạt được sự khôn ngoan.
Thánh Vịnh 89
Thánh vịnh nầy là một lời cầu nguyện dâng lên Chúa xin Người chấp nhận đưa con người vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa.
Plm 9b-10.12-17
Bức thư nầy được sánh ví như hạt trân châu của lòng từ tâm đầy tế nhị. Thánh Phaolô viết cho một người bạn Kitô hữu để xin ông tiếp nhận lại một người nô lệ đã trốn thoát, đang ẩn náu nơi nhà của Phaolô, đã được Phaolô rửa tội để trở thành Kitô hữu.
Tin mừng Lc 14,25-33
NGỮ CẢNH
Ở đây bắt đầu phân đọan dài, trong đó Luca gom lại các giáo huấn của Chúa Giêsu về một vài chủ đề đặc biệt hướng tới nhiều lọai thính giả khác nhau:
- nói với đám đông về điều kiện để làm môn đệ của Ngài (14,25-35).
- nói với người Pharisêu về sự cần thiết phải hoán cải để tiếp nhận những tội nhân (15,1-32).
- với các môn đệ, về việc sử dụng tiền của (16,1-13)
- với người Pharisêu về giá trị và giới hạn của Lề luật (16,14-31).
- một lần nữa với các môn đệ, về cuộc sống huynh đệ, đức tin và phục vụ (17,1-10).
Đoạn đầu tiên gồm ba lời dạy của Chúa Giêsu, dùng hình thức phủ định để trình bày các đòi hỏi dành cho người muốn đi theo Ngài:
- yêu mến Chúa Giêsu hơn tất cả và chính mình (14,26; Mt 10,37),
- vác thập giá (14,27),
- từ bỏ tất cả (14,33).
Đòi hỏi cuối cùng được chuẩn bị và minh họa bằng hai dụ ngôn ngắn (14,28-32) và tất cả kết thúc bằng một lời cảnh giác qua hình ảnh muối (14,34-35).
TÌM HIỂU
Rất đông người: đám người nầy đang đi theo Chúa Giêsu (x. 11,29) trên đường lên Giêrusalem (9,51). Nhưng Ngài muốn họ suy nghĩ về điều mà Ngài chờ đợi nơi các môn đệ. Ngài nói những lời nầy với tất cả mọi người, vì không dành riêng cho một ơn gọi đặc biệt nào cả.
Nếu ai đến với tôi: kiểu nói “nếu ai..” (14,26), “ai” (14,27), “bất cứ ai” (14,33), được Cựu Ước dùng để diễn tả lề luật Is ra el, được Chúa Giêsu xử dụng để cho thấy ý muốn của Ngài khi qui định luật mới.
Không ghét (dứt bỏ): kiểu nói dễ gây hiểu lầm trong thời Chúa Giêsu và ngày nay, thậm chí trong ngữ cảnh, động từ nầy có nghĩa là “yêu mến ít hơn” hoặc “chuộng hơn”, như trong thư Phaolô: “Khi các con bà (Êsau và Gia cóp) chưa sinh ra, và do đó chưa làm gì tốt hay xấu, thì Thiên Chúa đã nói với bà: ‘Thằng anh sẽ làm tôi thằng em. Như vậy là để giữ vững kế họach Thiên Chúa đã tự do chọn lựa, mà chọn không dựa vào việc người ta làm, nhưng dựa vào ý muốn của Thiên Chúa là Đấng kêu gọi. Như có lời chép: ‘Ta yêu Gia cóp mà ghét Ê xau” (Rm 9,12-13).
Ở đây, sự ưu ái dành cho Chúa Giêsu chỉ ngầm ý chứ không được giải thích rõ bằng ở Mt 10,37.
Để giải thích kiểu nói nầy, xin đọc lại Ga 12,25: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. X. thêm Lc 16,13.
Cha mẹ: Mt (10,37) chỉ nói tới cha mẹ và con cái; còn Lc kể ra tất cả những liên hệ gia đình. Dù chính đáng (18,20), những liên hệ ấy nhiều khi tạo nên một tình cảm quá mật thiết đến nỗi không còn chỗ dành cho sự ưu tiên của Nước Trời và của đức tin.
Tuy nhiên, Lc nghĩ đến nhóm xã hội hơn là các cá nhân. Lời nói của Chúa Giêsu có thể được soi sáng bằng ví dụ ông Abraham, đã bỏ đất đai và người nhà của mình, vì được Chúa kêu gọi (St 12,1-4). Và nhiều vị tử đạo đã làm chứng cho sự ưu ái đối với Chúa Giêsu. Có lẽ cũng có một ám chỉ đến sự đoạn tuyệt cần phải có trong sứ mạng nơi người dân ngọai: cần phải chấp nhận đoạn tuyệt với thế giới quen thân Híp pri (x. 12,51-53).
Cả mạng sống mình: “Không ai có một tình yêu nào lớn hơn là thí mạng vì bạn hữu mình” (Ga 15,13). Điều mà Chúa Giêsu đã làm gương, Ngài đề ra cho các môn đệ của Ngài bắt chước. Phục vụ Nước Trời đòi hỏi người ta quan tâm tới Thiên Chúa hơn là chính bản thân mình.
Vác thập giá mình: x. c. 9,23. Kiểu nói chỉ có ý nghĩa nếu qui chiếu đến thập giá Chúa Giêsu: do đó nó được tác giả sách tin mừng xử dụng cho các độc giả mới học biết các mầu nhiệm Vượt qua. Người môn đệ dấn thân với Chúa Giêsu phải chấp nhận đi đến cùng là thập giá. Đây còn là một lời mời gọi có tính cách tín lí hơn là một lời khuyên luân lí: chấp nhận chường kì thập giá Chúa Giêsu, tin rằng thập giá là con đường đưa đến sự sống. Từng người môn đệ được mời gọi dấn thân vào mầu nhiệm ấy (x. Gl 2,19; 1Cr 1,23;2,2).
Chúng ta còn có thể dùng kiểu nói của Phêrô để giải thích kiểu nói ngược lại: “mang lấy ách” lề luật (Cv 15,10). Trong trường hợp nầy, chấp nhận thập giá Chúa Giêsu cứu độ có thể là đi ngược lại với sự gắn bó với lề luật không thể cứu độ. Ách của chúng ta không phải là ách của lề luật, mà là ách của thập giá Đức Kitô.
Môn đệ: kiểu nói “không thể là môn đệ của ta” được lặp lại đến ba lần (14, 26.27.33).
Xây: cả hai dụ ngôn đều mời gọi suy nghĩ trước khi hành động. Cách diễn tả vay mượn từ kho từ vựng Kinh Thánh, hoặc từ cách phòng thủ tự vệ riêng (tháp canh trong vườn nho hoặc tự vệ trong xưởng thợ, x. Mc 12,1), hoặc từ quân đội (áo giáp, vua).
Trong cả hai trường hợp, vấn đề là phải bắt đầu đo lường trước tầm mức công việc trước khi thực hiện để đảm bảo thành công. Nhưng trở thành môn đệ Chúa Giêsu vượt xa tất cả những gì thuộc thế giới con người và đòi phải gặp Chúa Giêsu trong mầu nhiệm thập giá của Ngài. Khác với cách suy nghĩ bình thường, không phải khí giới cứu sống con người, nhưng là chính đức tin vào Thiên Chúa (x. Tv 33,16-20); điều quan trọng không phải là sở hữu, nhưng là bỏ tất cả mọi sự mà đi theo Chúa Giêsu đến độ trút bỏ hết mọi sự trên thập giá (x. Pl 3,7). Cả hai thí dụ trên đòi phải từ bỏ những dự định sử dụng quyền lực, cũng mang nhiều ý nghĩa.
Những gì mình có: điều nầy cho thấy tính cách tuyệt đối trong giáo huấn của Chúa Giêsu theo Luca: đây là việc bỏ tất cả, không chỉ là những của cải vật chất, mà tất cả mọi khả năng của con người. Người ta không chinh phục sự cứu độ bằng chính sức mạnh của trí khôn của mình hoặc trả giá bằng tiền bạc, nhưng lãnh nhận sự cứu độ bằng sự khó nghèo và trong ý thức mình bất lực hòan toàn. Kiểu nói trên là một tổng hợp các điều kiện đi trước. Đây là việc đoạn tuyệt với một cuộc sống được điều khiển bằng ý muốn riêng của mình, chấp nhận để Chúa Giêsu hướng dẫn và gắn bó với Ngài cho đến thập giá. X. Ga 21,18.
SỨ ĐIỆP
Bài tin mừng chủ nhật hôm nay phải được gọi theo thánh Phaolô là “sự điên rồ của Thiên Chúa”. Sự điên rồ đã thúc đẩy Người đến độ hóa thân làm người và chết cho tất cả những người tội lỗi. Những ai chọn theo Đức Kitô không còn có thể ở lại trong bình diện lí luận nữa, mà phải đi vào tình yêu. Và chỉ như thế chúng ta mới thể lắng nghe và đón nhận lời mời gọi của Đức Kitô hôm nay:
“Nếu ai muốn theo Thầy mà không yêu mến Thầy hơn cha, mẹ, vợ con và ngay cả cuộc sống riêng của mình thì không thể làm môn đệ Thầy”.
Nghe lời ấy, chúng ta rất dễ bị cám dỗ muốn so sánh Chúa Giêsu với một người độc tài áp đặt những đòi hỏi phi lí.
Nhưng để hiểu lời mời gọi ấy của Đức Kitô, chúng ta phải thay đổi cái nhìn của chúng ta về Thiên Chúa. Tòan bộ sách Thánh Kinh mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là tất cả cho con người. Chính vì thế mà Đức Kitô có thể đòi hỏi nơi chúng ta một đức tin tuyệt đối và một tình yêu không giới hạn. Anh em Hồi giáo nói với chúng ta rằng: “Thiên Chúa thật vĩ đại”. Người vĩ đại hơn vũ trụ tạo thành, vĩ đại hơn tất cả mọi quyền hành con người. Thiên Chúa là Tuyệt đối. Ngài luôn luôn siêu vượt mọi hình ảnh mà chúng ta có thể có về Người và tất cả những gì mà chúng ta có thể nói về Người. Người xứng đáng được con người tặng ban tất cả và hiến dâng trọn vẹn cuộc sống.
Vì thế mà bài tin mừng hôm nay mời gọi chúng ta yêu thương Đức Kitô hơn hết mọi sự. Nếu Ngài đã hiến dâng cuộc sống mình trên thập giá ấy là bởi vì Ngài muốn cứu chuộc chúng ta và giải phóng chúng ta khỏi tội lỗi, và vì chúng ta có giá trị nhất trong ánh mắt của Ngài. Ngài đã yêu thương chúng ta bằng một tình yêu điên dại. Một lời đáp trả lời cân xứng với tình yêu ấy mà Ngài chờ đợi nơi chúng ta chỉ có thể là: “Chỉ có Chúa mới đáng kể”. Tình yêu điên dại ấy đã gợi lên trong suốt nhiều thế kỉ những lời đáp trả và dấn thân cũng mãnh liệt như thế. Như suốt đời giam mình trong bốn bức tường cao trong một tu viện kín hoặc hiến thân phục vụ những người nghèo khổ nhất ở Calcutta hoặc ở các nơi khác.
Chấp nhận để cho Chúa Giêsu vượt lên trên tất cả không phải là điều dễ dàng. Dành cho Ngài ưu tiên trên những của cải mà chúng ta đang có thì tương đối còn dễ, nhưng làm sao chấp nhận để tình yêu Chúa Giêsu lấn át mọi tình yêu đối với những người thân yêu nhất, như một người chồng, một người vợ và con cái? Thế mà, đó lại là lời dạy trong Tin mừng.
Chúng ta là những người Kitô hữu, chính Chúa Giêsu là đấng mà chúng ta phải dành ưu tiên. Nhưng tình yêu ưu tiên ấy không lọai trừ tình yêu mà chúng ta dành cho những người thân cận. Đức Kitô không đòi chúng ta phải ghét họ, nhưng đặt tình yêu dành cho họ đúng chỗ. Yêu thương tha nhân, là không phải thần thánh hóa họ hay biến họ thành thần thánh. Nhưng là cho phép họ thực hiện chính mình, trở nên chính mình. Chúng ta được mời gọi yêu thương người khác vì họ chứ không vì chúng ta. Ngang qua những người khác, chính Thiên Chúa đang hiện diện. Khi chúng ta đã khám phá điều đó, chúng ta sẽ nhận ra rằng Ngài trở nên “con đường sáng đưa ta tới khám phá vô biên”.
Trong bài tin mừng hôm nay, chúng ta có hai dụ ngôn ngắn hỗ trợ cho lời mời gọi ấy: khi muốn xây một tháp canh, phải tính tóan mọi phí tổn xây dựng. Trong tư tưởng của Israel, muốn xây dựng một tháp canh là toan tính của người muốn chế ngự. Nếu không làm xong, thì xấu hổ biết bao. Rồi Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe câu chuyện của ông vua muốn đi giao chiến chống lại vua khác. Chính ông cần phải lượng định cho đúng sức mạnh quân sự của mình và của đối phương nếu không muốn thất trận.
Ai chọn theo Chúa Giêsu thì cũng phải tính tóan, nhưng không giống như thế. Ngài đòi chúng ta phải yêu Ngài hơn tất cả những của cải trần gian và tất cả những gắn bó gia đình của chúng ta.
Dành cho ngài chỗ nhất trong cuộc sống, điều đó không lọai trừ các phần tử trong gia đình chúng ta; nhưng chỉ có nghĩa là dành cho họ vị trí thứ hai. Điều răn thứ nhất là yêu mến Thiên Chúa; điều răn thứ hai là yêu thương tha nhân. Tình nầy không thể có nếu thiếu tình kia. Khi chúng ta đặt những tình yêu của chúng ta vào đúng chỗ, thì chúng ta có thể mở ra cho tình yêu hoàn toàn không tính tóan dành cho Đức Kitô. Ngài trở thành người thứ nhất được yêu thương, được mong muốn, được phục vụ.
Theo Chúa Giêsu là đi ngược lại những cách sống của thời đại chúng ta. Sự chọn lựa của tin mừng có thể kéo theo những đoạn tuyệt đau đớn. Nó sẽ quấy rầy chúng ta trong các thói quen, tiện nghi chúng ta. Đó là trường hợp của những người sẵn sàng hi sinh thời giờ để giảng dạy giáo lí, coi sóc một nhóm trẻ hoặc tham dự vào các hội đòan và làm việc phục vụ giáo xứ. Vị trí ưu tiên dành cho tình yêu Thiên Chúa đối với tất cả mọi người, đặc biệt cho những người bé nhỏ, những kẻ đau yếu, những người bị lọai trừ. Ngài mời gọi tất cả chúng ta đi theo Ngài để trở thành chứng nhân trong thế giới hôm nay.
Nếu chúng ta yêu thương Chúa Giêsu thì hãy để Ngài đi vào trong cuộc sống của chúng ta. Sự hiện diện của Ngài là một luồng Ánh sáng đến ở trong cuộc đời chúng ta và biến đổi từ bên trong. Khi cử hành Thánh lễ, chúng ta có thể múc tận nguồn để tiếp tục cuộc hành trình của chúng ta đi theo Đức Kitô. Chúng ta hãy cầu xin Ngài ban cho chúng ta sức mạnh để trở thành nhân chứng nhiệt thành cho tình yêu của Người trong cuộc sống hôm nay.
27. Những điều kiện để bước theo Đức Giêsu_ Lm FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Được đặt vào trong bài tường thuật về hành trình lên Giêrusalem, cuộc nói chuyện của Đức Giêsu trong bữa ăn tại nhà một thủ lãnh người Pharisêu (Lc 14,1) nay đã đến lúc kết thúc. Tác giả Tin Mừng III lại giúp độc giả để ý đến bước tiến của Đức Giêsu lên Giêrusalem cũng như đến đám đông đang cùng đi với Người. Tác giả cho thấy Đức Giêsu nói về những điều kiện để làm người môn đệ đích thực (14,25-33). Khi tìm lại văn cảnh trước đó, ta gặp một lời mời gửi đến mọi người trên mọi nẻo đường, dọc theo bờ rào bờ dậu, đến dự tiệc vương quốc, để “người ta vào đầy nhà cho ta” (c. 23). Nay Đức Giêsu thêm một nhận định mới: điều kiện phải giữ để được làm môn đệ trong Vương quốc. Để được vào Vương quốc, phải đáp ứng những điều kiện riêng, và phân đoạn 14,25-33 ở trong thế song đối đối nghĩa với phân đoạn 14,15-24. Nếu đặt vào trong ngữ cảnh rộng lớn hơn, là bài tường thuật về hành trình, phân đoạn này với nhiều chi tiết nói về việc bước theo Đức Giêsu, bước đi đàng sau Người, lên kế hoạch chuẩn bị cho một công trình, … cung cấp cho tác giả những chi tiết để ngài phác ra đời môn đệ của Đức Kitô.
2.- Bố cục
Bản văn có thể chia thành bốn phần:
1) Mở đầu (14,25);
2) Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (14,26-27);
3) Hai dụ ngôn (14,28-32):
a) Dụ ngôn Người xây tháp (cc. 28-30),
b) Dụ ngôn Vị vua ra trận (cc. 31-32);
4) Kết (14,33).
3.- Vài điểm chú giải
- dứt bỏ (26): dịch sát là “ghét” (miseô), ngược lại với agapaô, “yêu thương”. Động từ miseôđã được dùng ở Lc 6,22.27 để mô tả thái độ của những người ở ngoài đối với các môn đệ Đức Giêsu. Bây giờ động từ này lại được dùng để nói về tình yêu ưu tiên người ta phải dành cho Đức Giêsu.
- môn đệ tôi (27): Các môn đệ Đức Giêsu đã được nhắc đến ở Lc 5,30; 6,1.13.17.20; 8,9.22; 9,14.16.18.40.43b.54; 10,23;12,1.22. Sau đó họ lại được nhắc đến ở 16,1; 17,1.22; 18,15; 19,29.37.39; 20,45; 22,11.39.45. Trong sách Cv, từ ngữ mathêtai, “các môn đệ”, trở thành từ quen thuộc để gọi các Kitô hữu (6,1.2.7; 9,1.10.19.26.38; 11,26.29; 13,52; 14,20.22.28; 15,10; 16,1; 18,23.27; 19,1.9.30; 20,1.30; 21,4.26 (2x).
- một cây tháp (28): Đây là một tháp canh để bảo vê một ngôi nhà, một mảnh đất, một vườn nho.
- từ bỏ (33): Động từ Hy Lạp apotassomai, như ở 9,61, có nghĩa là “kiếu từ, từ giã” (say good-bye, say farewell). Lời khuyên này làm vọng lại lời khuyên ở 12,33, và sẽ được nhắc lại ở 18,22.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Mở đầu (25)
Điểm nổi bật nơi Đức Giêsu là sự cương quyết chấp nhận số phận bằng cách nhất định tiến về Giêrusalem. Trên đường đi, có rất nhiều người đi theo Người. Họ muốn ở với Người. Họ tưởng rằng Người có điều gì đó chắc chắn mà nói với họ và có điều gì đó bền vững mà ban cho họ. Họ bị Người thu hút. Đức Giêsu không xua đuổi họ. Nhưng Người cũng không muốn họ đi theo Người với những nỗi niềm chờ mong sai lạc. Người nói với họ rõ ràng.
Chúng ta thấy Đức Giêsu đã ba lần nêu lên những yêu cầu cho những ai muốn đi theo Người, và mỗi lần Người đều kết luận như nhau, “… thì không thể làm môn đệ tôi được” (cc. 26.27.33). Người khiến chúng ta có ấn tượng là Người muốn họ bỏ Người thay vì lôi kéo họ đến với Người.
* Điều kiện để đi theo Đức Giêsu (26-27)
Ai gắn bó với Đức Giêsu, thì cần biết mình phải đáp ứng những yêu cầu nào. Các điều kiện Người nêu ra không chỉ được đề nghị riêng cho một ít người tuyển chọn, nhưng cho tất cả những ai đang đi với Người.
Trước tiên, Người yêu cầu phải “ghét” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Chẳng phải là điều răn yêu thương người thân cận đã bị đảo lộn rồi sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự ghét bỏ đối với họ? Nhưng ý nghĩa của từ “ghét” ở đây được làm sáng tỏ nhờ Mt 10,37: “Ai yêu cha yêu mẹ hơn Thầy, thì không xứng với Thầy. Ai yêu con trai con gái hơn Thầy, thì không xứng với Thầy”. Điều này có nghĩa là ai muốn đi theo Đức Giêsu thì phải yêu mến Người hơn tất cả những người khác, kể cả những người gần gũi với mình nhất. Người ấy lại còn phải yêu mến Người hơn cả chính bản thân mình. Đức Giêsu yêu cầu người ta dành cho Người một vị trí đặc biệt và duy nhất. Vì thế, “ghét” đây cũng có thể phải hiểu là “dứt khoát” với những quan hệ nào đó nếu can, để có thể trung thành với Tin Mừng. Chính tương quan duy nhất với Đức Giêsu sẽ điều hành mọi tương quan của ta với những người khác.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, mà là cái tôi, là tính ích kỷ, là tình yêu đối với chính mình. Cả cái tôi và sự sống của ta cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu. Ai muốn đi theo Đức Giêsu, thì phải vác thập giá của chính mình, phải đi theo Người trên con đường thập giá. Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Người thích. Nhưng Người vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa.
* Hai dụ ngôn (28-32)
Rất có thể Đức Giêsu nhận thấy rằng nhiều thính giả bắt đầu nghĩ rằng Người phóng đại. Để giúp họ hiểu Người muốn nói gì, Người kể cho họ nghe hai dụ ngôn ngắn, đơn giản. Dụ ngôn thứ nhất nói về một người muốn bảo vệ hoa mầu khỏi trộm cướp và dã thú phá phách. Ông đã quyết định xây một cái tháp trong cánh đồng của mình. Trước khi bắt đầu công việc, ông đã tính toán phí tổn, để xem ông có đủ tiền mà thực hiện chăng (cc. 28-30). Dụ ngôn thứ hai nói về một vị vua quyết định ra trận. Tuy nhiên, ngay lúc đầu, ông phải lượng định về sức mạnh của đoàn quân của ông (cc. 31-32). Vào thời của Đức Giêsu, có một câu tục ngữ: “Nếu bạn muốn săn sư tử, hãy phóng cái lao của bạn xuống đất. Nếu bạn không thể phóng cái lao thật sâu, thì đừng đi săn sư tử!”. Bài học rất rõ: đừng tự lừa dối chính mình; bạn không phải là môn đệ Đức Giêsu chỉ nhờ nghe Tin Mừng của Người và cảm thấy hứng thú đối với Tin Mừng ấy. Bạn phải xem bạn có thể làm chăng những điều Người yêu cầu bạn.
Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu khuyên những người đang đi theo Người đừng quyết định làm môn đệ, nếu trước đó không cân nhắc kỹ càng trước. Người ta phải cứu xét đến không những các đòi hỏi phải thực hiện, nhưng cả những hậu quả của chuyện mới bắt đầu thì đã bỏ dở dang vì không có sức đi tới cùng. Các môn đệ phải xem lại là mình có những sức mạnh và tài nguyên nào.
Sau hai dụ ngôn, Đức Giêsu nêu ra điều kiện thứ ba: “Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33). Vấn đề không chỉ là bỏ ra một ít tiền để làm việc bác ái, mà là phải bỏ hết mọi sự.
* Kết (33)
Sau hai điều kiện (cc. 26.27), câu kết này là điều kiện thứ ba (c. 33), một đòi hỏi triệt để. Đức Giêsu kêu mời người ta từ bỏ tất cả các của cải vật chất, để có thể làm môn đệ Người.
Có những người đã giải quyết khó khăn này bằng cách chia các Kitô hữu thành “những người hoàn thiện” (linh mục, tu sĩ) một bên, còn bên kia là tất cả các Kitô hữu còn lại, những người có thể giữ tất cả những gì họ có và chấp nhận làm “Kitô hữu bất toàn”. Cách làm này đã chia họ các môn đệ Đức Giêsu thành hai, đánh mất sự hợp nhất thiêng liêng của họ. Nhưng lệnh đó được ban cho tất cả những ai muốn nên “xứng đáng” với Đức Giêsu. Để không một ai hiểu sai ý Người, Đức Giêsu đã nhắc lại giáo huấn này nhiều lần (Lc 12,33; 18,22; x. 5,11.28).
+ Kết luận
Ai muốn đi theo Đức Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vì trân trọng ý muốn của Ngài, người ta phải chấp nhận đau khổ, tủi nhục, bị khinh bỉ và tất cả những gì đối lập lại với một cuộc đời thú vị, thậm chí đến chỗ mất mạng sống mình. Hẳn là chúng ta muốn tạo ra một hình thái Kitô giáo vừa tầm với chúng ta, làm chúng ta vui thích. Đức Giêsu nói với người ta rằng họ chỉ có thể bước theo Người theo những điều kiện của Người. Ai muốn thuộc về Đức Giêsu, thì phải quyết định theo Đức Giêsu toàn thể, với trọn con đường của Người.
Đức Giêsu không nói rằng nếu ai muốn đi theo Người mà không từ bỏ những người than, mạng sống và mọi của cải, thì không thuận lợi bao nhiêu, mà nói là hoàn toàn vô ích, như muối không còn vị mặn nữa (x. Lc 14,34-35).
5.- Gợi ý suy niệm
1. Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu, muốn thực sự làm Kitô hữu, thì cần phải biết các điều kiện được đề ra, và phải suy nghĩ xem mình có khả năng đáp ứng chăng. Nếu dừng lại giữa đường rồi bỏ cuộc, thì chẳng nghĩa lý gì. Đức Giêsu muốn người ta đi theo Người cách ý thức và có cân nhắc. Các điều kiện được nêu ra không chỉ có giá trị cho một thiểu số ưu tuyển, nhưng cho mọi người. Bước theo Đức Giêsu có nghĩa là tuyệt đối không bám víu vào các của cải vật chất, và phải sử dụng chúng tùy theo dây liên kết chúng ta với Đức Giêsu.
2. Dây liên kết người ta với Đức Giêsu phải có quyền ưu tiên hơn mọi liên hệ khác. Tình yêu đối với Người không loại trừ tình yêu đối với loài người, trái lại là đàng khác. Đức Giêsu muốn chúng ta yêu thương người thân cận. Và tình yêu đối với Người đòi hỏi chúng ta chu toàn ý muốn của Người. Nhưng tương quan với người thân cận phải được qui định bởi tương quan với Đức Giêsu và phải được tháp nhập vào trong tương quan này. Nếu phải chọn lựa giữa Đức Giêsu và một người gần gũi với ta, ta phải chọn Đức Giêsu. Đàng khác, ta phải đào luyện tương quan của mình với người thân cận thế nào để không gây rối cho tương quan của ta với Đức Giêsu. Tiêu chuẩn tối hậu của đời sống chúng ta không phải là nguyện vọng hoặc ý muốn của người thân cận, hoặc sở thích của người ấy, hay là sự hòa hợp với người ấy, nhưng là ý muốn của Đức Giêsu và con đường trên đó Người đang đi mà dẫn dắt chúng ta. Người Kitô hữu không được tìm cách sống hài hòa với người thân cận ngược lại với ý muốn của Đức Giêsu, nhưng là với và trong sự lệ thuộc ý muốn đó.
3. Bước theo Đức Giêsu: hoặc là một cuộc bước theo trọn vẹn, hoặc chẳng phải là mộtcuộc bước theo. Người ta không được chỉ chọn ra một vài nét thuộc về hành trình của Đức Giêsu mà người ta thích. Hoặc là người ta sẵn sàng đi với Người trọn chuyến đi, hoặc có bắt đầu cũng chẳng ích gì. Thập giá của Đức Giêsu là dấu chỉ cụ thể về sự trung thành vô điều kiện của Người đối với thánh ý Chúa Cha, với định mệnh của Người và với sứ mạng của Người. Đối với Người, sự trung thành này còn quý giá hơn chính mạng sống Người.
4. Cộng đoàn Giêrusalem đã góp mọi sự lại, nên không còn có ai bị nghèo túng ở giữa họ (Cv 2,44-45; 4,32-35). Hẳn là các Kitô hữu hôm nay cũng có thể thứ những nẻo đường mới. Chắc chắn nếu chúng ta chọn bước theo Đức Kitô, chúng ta phải thay đổi thái độ của chúng ta đối với của cải của thế gian này.
Hoạt cảnh hoàn toàn thay đổi. Cuộc hành trình tiếp tục. Các địch thủ tạm khuất dạng một chốc lát; nói với đám đông người cùng đi đường với Ngài, Chúa Giêsu dạy cho họ một bài giáo lý về điều kiện phải có để làm người môn đệ. Những lời dạy của Ngài tương phản với dụ ngôn ở trên, bởi vì chúng nêu lên trước một đề tài lúc đó được hiểu ngầm: những ai đón nhận lời mời đi vào Vương Quốc phải tuân thủ một số đòi hỏi.
Giáo huấn được mở đầu bằng hai lời liệt kê những điều kiện để trở thành môn đệ; thực thế, đến với Chúa Giêsu chưa đủ (cc.26-27). Điều thứ nhất đòi hỏi người ta ghét gia đình và cả đến mạng sống mình nữa (c.26). Chắc hẳn trong Do Thái giáo có nhiều trường hợp những người đã cưới vợ bỏ tất cả để theo phục vụ một ông thầy và học hỏi Lề Luật với ông, mà một trong những việc phục vụ là đi theo Thầy khắp nơi (x. đã có Êlisê đi theo và phục vụ Êlia, 1V 19-21). Tính cách độc đáo của lời Tin Mừng gồm có hai điểm. Trước hết, với một ngôn ngữ triệt để (“ghét”) người ta được yêu cầu phải từ bỏ, theo gương Chúa Giêsu (8,19-21; 11,27-28), mọi quyến luyến với gia đình là thứ gây cản trở (trường hợp người vợ mới cưới, x. 14,20). Mọi liên hệ hoàn toàn chính đáng này cũng như tình yêu hợp lý đối với chính mạng sống mình, không được chiếm chỗ ưu tiên. Điều mới mẻ thứ hai: rời bỏ gia đình không có mục đích là học luật nhưng để gắn bó với chính bản thân Chúa Giêsu và theo Ngài lên Giêrusalem để chia sẻ số mệnh của Ngài. Chỉ là môn đệ đích thực những ai có khả năng có được quyết định triệt để và khó khăn này: loại bỏ tất cả những gì ngăn cản họ bắt chước Chúa Kitô. Tiếp theo đó là giáo huấn về con đường khổ giá, giáo huấn này đưa ra hai điều kiện: vác thập giá mình và đi theo Chúa Giêsu. Như trong giáo huấn song song ở 9,23, có một ám chỉ đến cách thức mà Chúa Giêsu sẽ phải chết. Không có một chỗ nào khác trong Luca, Chúa Giêsu nói về việc Ngài bị đóng đinh.
Hai dụ ngôn, được gắn liền với những gì đi trước bằng một từ kiên quyết”quả thế”, mời gọi suy nghĩ một cách nghiêm chỉnh: không có vấn đề dấn thân một cách nhẹ dạ theo Chúa Giêsu hay làm việc nửa vời, phải đảm bảo có thể tiếp tục công trình cho đến hoàn thành (cc.28-32). Các hình ảnh rút từ cùng môt lĩnh vực: vấn đề về xây cất (một cây tháp) và về lực lượng vũ trang; trở thành môn đệ cũng gần như gia nhập một đạo binh trong thời chiến…
Khi nói về việc áp dụng dụ ngôn, có một lời giáo huấn đưa ra một điều kiện mới rất được Luca yêu thích: người môn đệ phải từ bỏ hết những gì mình có (cc.26.27.33). Ai không quyết định từ bỏ mọi sự, kể cả chính mạng sống mình, sẽ thất bại một cách nhục nhã. Tính toán đến tài nguyên và sức lực của mình chính là, một cách nghịch lý, vất bỏ tất cả những gì gây trở ngại.
Bài diễn từ kết thúc bằng một câu châm ngôn bình dân (cc.34-35). Trong thời thượng cổ muối vừa được dùng để bảo tồn thức ăn vừa là gia vị. Vì có thể giữ thức ăn khỏi bị hư thối, nó tượng trưng cho sự bền vững; bởi vậy nó rất cần thiết cho việc hy tế (Lv 2,13). Ở Palestin người ta thường dùng muối có phẩm chất kém, pha trộn nhiều tạp chất, nên nó thường bị mất mặn đi sau một thời gian. Mà muối, dùng để ướp thức ăn cũng như của lễ chẳng hạn, thì chính nó không thể được ướp bằng thứ muối nào nữa, nếu nó mất khả năng ướp măn thì chẳng có muối nào làm nó mặn lại được. Vậy mà, giáo huấn về muối này lại được nói ở phần cuối của một bài giáo lý về điều kiện phải có của người môn đệ. Do bởi ý nghĩa kép của từ Aram tiềm ẩn, câu của Luca có nghĩa”nếu chính muối đã điên rồ” (nhưng”nhạt” ở Mc 9,50) và màu sắc tâm lý này làm cho việc áp dụng giáo huấn được dễ dàng. Nếu những liên hệ giữa môn đệ và Chúa của mình lỏng lẻo, thậm chí bị cắt đứt, thì làm sao tái lập được? Người tín hữu lạt lẽo là kẻ điên rồ; kẻ vô tích sự này bị quẳng đi bởi vì họ bị mắng không thể là môn đệ (c.33). như thế đừng theo Thầy thì tốt hơn là theo cách lừng khừng hay ngừng lại giữa đường (xc. 28-32). Như Chúa Kitô nói trong sách Khải huyền:”Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi ‘lạnh hẳn hay nóng hẳn’, nhưng vì ngươi hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta” (Kh 3,15-16).
Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giêsu. Người quay lại bảo họ
Chúng ta vẫn đang trên con đường lên Giêrusalem, ở đó Luca đã tập hợp các tài liệu gốc mà ngài đã thu thập bởi các nguồn thông tin của riêng ngài. Người ta có thể nói rằng đây không chỉ là một bài tường thuật cụ thể mà hơn thế nữa là lịch sử cao cả của Đức Giêsu Kitô trong mọi thời đại. Những “đám đông người" cùng đi với Đức Giêsu không chỉ là vài trăm người ở Palestine trong thời đại đó, mà là vô số người, đàn ông có, đàn bà có đã bắt đầu đi theo Đức Giêsu qua bao thế kỷ. Vậy ngày hôm nay, Đức Giêsu hướng về phía chúng ta để đặt cho chúng ta một vài câu hỏi: "Anh em nói rằng anh em là những môn đệ của Thầy nhưng anh em có biết điều đó có nghĩa gì không? Anh em có biết đi theo Thầy sẽ dẫn anh em đi tới đâu không?".
Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được
Yêu sách đầu tiên của Đức Giêsu đúng là làm người ta phải hốt hoảng và nếu cần một lần nữa minh chứng rằng Giêsu Na-da-rét có ý thức Người không phải là "một người bất kỳ nào đó". Vậy thì Người là ai, nếu không phải là một người điên, lại yêu cầu toàn thể nhân loại phải dứt bỏ tình cảm đến như thế, để gắn bó với bản thân của Người?
Ai có thể hiểu được ngôn ngữ của các vì sao,
Ai có thể nhận ra âm nhạc của các linh hồn,
Ai với trái tim có đủ tự do
Sẽ biết yêu mến Thầy trên hết và đi theo sau Đấng, Lời của sự sống?
Tấm lòng cần phải rất tinh tế để hiểu biết Đức Giêsu.
Dĩ nhiên Đức Giêsu là ngôn sứ của tình yêu chứ không phải của lòng thù hận. Công thức gay gắt của Người không có nghĩa chúng ta bỏ rơi những mối liên hệ gia đình. Không nhằm biện minh cho thói ích kỷ, trái lại Đức Giêsu kêu gọi một sự từ bỏ triệt để bản thân mình. Vả lại, cần phải yêu mến Đức Giêsu hơn cả mạng sống mình. Như thế, thay vì phá vỡ một cách ích kỷ mọi quan hệ nhân bản thiêng liêng nhất của chúng ta (tình yêu phụ tử, hôn nhân, bằng hữu), Đức Kitô mời gọi chúng ta, mỗi người phải làm cho tình cảm ấy được sinh động và xuyên suốt bởi tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa... Và trong trường hợp hạn chế, thật vậy, vẫn phải là: “bỏ nhà, bỏ vợ, anh em, cha mẹ hay con cái vì Nước Thiên Chúa” (Lc 18,29). Và chính Đức Giêsu đã buộc mình phải dứt bỏ gia đình riêng trước khi yêu cầu điều đó với chúng ta, khi Người hiến dâng cả hồn và xác cho việc rao giảng Tin Mừng (Lc 8,19-21; 11,27-28).
Mỗi Người, tùy theo hoàn cảnh và ơn gọi của mình, phải vui lòng đón nhận yêu sách phi thường ấy trong đời sống cụ thể. Những từ bỏ tuyệt đối nào được đặt ra cho tôi để phục vụ Nước Thiên Chúa?
Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được
Ở đây có hai công thức: Vác thập giá và đi theo Đức Giêsu. Vậy vấn đề trước tiên không phải là từ bỏ mà là tình yêu. Người nào đã thật sự tìm thấy Đức Giêsu, Người ấy đã tìm thấy giá trị phát triển nhất trong mọi trường hợp. Tất cả những gì làm chúng ta đau khổ, có thể trở thành "sự hiệp thông của tình yêu”. Mọi người vác thập giá đi theo Đức Giêsu là đi theo Đấng đã vác thập giá đi đầu. Nếu chúng ta suy nghĩ thấu đáo, khi chúng ta lảo đảo dưới sự thử thách thì Đức Giêsu đã ở đó, kề bên chúng ta, đi trước chúng ta, chính Người cũng đang lảo đảo trên con đường thập giá dẫn Người đến niềm hoan lạc của sự sống lại! Simon, gốc Kyrênê, được đặt thập giá lên vai vác theo sau Đức Giêsu là hình ảnh của người môn đệ chân chính (Lc 23,26). Ai đã khám phá điều đó, đã tìm ta một bí mật; bí mật của một hạnh phúc mà không gì có thể phá hủy được. Không gì. Phúc cho người nào có cái nhìn xuyên thấu điều vô hình để tìm kiếm khuôn mặt của Người!
Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: "Anh ta đã khởi công xây, mà chẳng có sức làm cho xong việc!".
Dụ ngôn này là của riêng Thánh Luca: "Bổn phận phải ngồi xuống!" Dụ ngôn này nói lên khó khăn to lớn mà người ta phải chấp nhận khi cồ quyết định bắt đầu đi theo Đức Giêsu. Đây là một cuộc phiêu lưu dài ngày; và phải có thể đi đến cùng!
Đức Giêsu đã không bao giờ tìm cách quảng cáo, khi tạo ra tâm lý thành công giả tạo ở xung quanh Người. Thay vì che giấu những nguy cơ của công việc, Người nhấn mạnh chúng như để làm nản lòng ngay tức khắc những nhiệt tình bồng bột và chóng qua; như thể sự rút lui dọc đường còn tệ hơn là chưa bao giờ khởi sự? Điều này phải làm chúng ta suy nghĩ một cách thật nghiêm túc tính chất trầm trọng của việc từ bỏ đức tin khi việc từ bỏ này cố tình và có ý thức. Thôi không theo "Đức Giêsu nữa, khi người ta đã bắt đầu đi theo Người...” phải chăng trầm trọng hơn việc chưa từng biết Người? Trách nhiệm vô cùng của việc Tuyên xưng Đức Tin là thế. Nếu không nghiêm túc thì đừng làm? Trước khi tuyên hứa phải ngồi xuống, dùng thời gian mà suy nghĩ.
“Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra, đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng? Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa".
Hai dụ ngôn này "xây tháp" và "chiến đấu để thắng trận" là thành phần của các bản văn mà Luca đã có chủ ý tập hợp trong "đường lên Giêrusalem". Hai câu chuyện này đặt song song, dễ nhớ, với văn phong nói và lặp lại. Cùng một bài học được làm nổi rõ, được gấp đôi để không ai quên: Đời sống Kitô hữu chính là "xây dựng" và "chiến đấu”. Hai công việc gian nan đòi hỏi phải suy nghi và kiên trì. Chúng cũng yêu sách sự tiên liệu và tổ chức. Anh em phải ngồi xuống để suy tính!
Một đôi khi tôi có hoàn thành lời yêu cầu này của Đức Giêsu không?
Tôi có dùng thời gian để suy nghĩ cuộc đời tôi về những cam kết của tôi? Chúng ta đều biết làm các bảng tổng kết, tính toán, tiên liệu cho các công việc của con người vậy có khi nào chúng ta dừng lại một mình hay trong nhóm với những người khác để nhận định xem chúng ta đã thật sự sống những công việc của con Người trong đường lối của Đức Kitô? Đó là mục đích của việc "xét lại đời sống": Hãy nhìn, phán đoán, hành động, cầu nguyện trong ánh sáng của Tin Mừng.
Đi nghỉ hè về, lời mời gọi của Đức Giêsu đến đúng lúc. Một năm mới đây rồi, trước mặt chúng ta. Tất cả sẽ lại tiếp tục: Nghề nghiệp, trường học, tập đoàn, hiệp hội. Để không sống hời hợt với mình và với mọi việc, nguyện gẫm là bí quyết cửa đời sống sâu sắc và thật sự hiệu quả. Ngày hôm nay Đức Giêsu yêu cầu chúng ta không nên sống một cách hời hợt nông cạn.
Lạy Chúa, người nào mà Thần Khí Chúa cư ngụ, người ấy sẽ tiếp nhận những bí mật của Chúa Cha.
Trong ba năm của đời sống hoạt động, Đức Giêsu hầu như đã làm nhiều hơn mọi người hoạt động của thế gian.
Một bà mẹ trẻ trong gia đình, bề bộn công việc, một ngày nọ nói với tôi: "Những ngày nào con càng phải làm nhiều việc thì con càng cảm thấy nhu cầu phải ngừng lại, phải ngồi xuống mười phút để nguyện gẫm: và con được lời thời gian!”
“Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Vậy đây là lần thứ ba trong ít dòng trở lại cùng một điệp khúc sắc bén như dao thái thịt: "Không thể làm môn đệ của tôi được".
Và đối với Luca, điệp khúc như là kết luận của hai dụ ngôn nói trên. Cũng chính vì thế mà cần phải "ngồi xuống”. Người ta không theo Đức Giêsu trong sự dễ dãi. Ai không sẵn sàng đi đến cùng tốt hơn đừng nên khởi sự: Hãy từ bỏ tìm kiếm chính mình trong tình cảm, từ bỏ đời sống của riêng mình, từ bỏ của cải... bởi tình yêu. Lời mời gọi sự lột bỏ triệt để này, để sống nghèo khó, không phải là một "lời khuyên" dành riêng cho những Kitô hữu thượng hạng, các tu sĩ nam nữ như đôi khi Người ta thường hiểu như thế... Sự từ bỏ chính là điều kiện của mọi đời sống Kitô hữu như Đức Giêsu đã nói. Phải như thế để trở thành một “môn đệ đơn sơ". "Anh em không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền bạc" (Lc 16,13). Một lần nữa, thay vì phải quan niệm những lời ấy của Đức Kitô như những lời quá đáng, hãy dùng thời gian để cảm nhận chúng như những lời thật sự giải phóng và làm triển nở. "Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà cho em trở nên giàu có" (2Cr 8,9).
Nhưng để hiểu được điều đó, dĩ nhiên Thiên Chúa phải tràn ngập trong một tâm hồn. Chúng ta có tiếp tục hướng về "cái có" một cách tham lam hay không? Chúng ta có khám phá và nghĩ ra một cách sống sung sướng trong tình bạn, sự chia sẻ và tính đơn sơ không?
"Xã hội tiêu thụ không làm cho con người hạnh phúc".
Đức Gioan Phaolô II đã nói với giới trẻ ở Công viên các Hoàng Tử. Họ đã vỗ tay tán thưởng. Họ đã đồng ý. Nhưng thế thì sẽ có những kết luận thực hành nào về phương diện mua sắm, nhịp độ của đời sống và sử dụng tiền bạc... để được tự do hơn. Và thật đơn giản, để "đi theo Đức Giêsu”, để giống Người đôi chút.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa là Anh Nghèo, vinh quang đời đời của Thiên Chúa ở nơi Ngài!
30. Chú giải của R. Gutzwiller
KÊU GỌI và LỰA CHỌN (14, 15-24)
Dụ ngôn sau cùng về bữa tiệc hiển nhiên ám chỉ cuộc sống vĩnh cửu. Người ta hiểu được như vậy căn cứ vào lời một thực khách: ‘phúc cho kẻ sẽ được ăn tiệc trong Nước Thiên Chúa’. Đức Giêsu soi sáng vấn đề những kẻ được chọn trong Nước trời đã thành hình khi Ngài kể dụ ngôn các thực khách dự tiệc cưới.
1. Mời gọi.
Trong tất cả các dân tộc, Israel là dân tộc được mời dự tiệc cưới trước tiên. Câu ‘xin mời đến vì mọi sự đã dọn sẵn’, hàm chứa lời mời của Chúa khi Ngài đến nhập thể làm người. Những gì có trước đó chỉ là chuẩn bị. Giai đoạn chuẩn bị đã chấm dứt, bữa tiệc đã sẵn sàng. Thời chuẩn bị đó chính là việc xuất hành khỏi Ai cập để về Canaan và chinh phục đất hứa; là giao ước trên núi Sinai, là toàn bộ lề luật, là sấm ngôn quan trọng của các tiên tri, là đền thờ. Ngoài ra còn là hình ảnh của những vị vua tiêu biểu, là những khổ nhục thời lưu đầy, rồi là vị Tiền Hô, sau cùng là những lời giảng thuyết và phép lạ của chính Đức Giêsu.
Giờ đây, mọi sự đã sẵn sàng. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để nhận quyền làm chủ thành thánh. Ngài tự hỏi: không biết với những cái chuẩn bị đó, dân của Ngài đã thực sẵn sàng chưa?
Giáo Hội với công việc của mình, cũng là một sự chuẩn bị. Dĩ nhiên, đây là giai đoạn hoàn tất giao ước cũ, những vẫn là chuẩn bị đối với sự ứng nghiệm dứt khoát. Phép rửa, một cuộc tái sinh, chuẩn bị cho đời sống mới bắt nguồn từ biến cố Phục sinh. Tiệc Thánh Thể chuẩn bị cho tiệc vĩnh cửu trên trời.
Cho nên, chúng ta cử hành tiệc Thánh Thể cho tới khi ‘Chúa lại đến’. Bí tích Hôn phối chuẩn bị đi đến một cộng đồng vĩ đại, sống và yêu thương dưới quyền quản trị của Thiên Chúa. Bí tích Thống hối chuẩn bị việc Chúa đến, ân sủng chuẩn bị cho vinh quang. Sau cùng, đau khổ chuẩn bị cho cuộc khải hoàn thêm vĩ đại và cái chết chuẩn bị cuộc sống chân thực.
Giáo Hội chuẩn bị cho Nước Thiên Chúa, hay đúng hơn Giáo Hội là Nước Thiên Chúa còn phôi thai.
2. Những người kiếu từ.
Trong dụ ngôn, các thực khách được mời không sẵn sàng. Vì cho rằng còn có những việc còn quan trọng hơn, họ đã khước từ việc thiết yếu. Họ lo lắng đến những điều phụ thuộc và vì thế bỏ qua việc chủ chốt.
Lời thoái thác của người thứ nhất biểu hiệu não trạng duy vật. Một miếng đất mới tậu đối với y còn giá trị hơn một lời mời danh dự. Israel muốn có một vị Thiên Sai đem lại cho họ của cải vật chất. Đối với dân chúng, cơm bánh và vui chơi quan yếu hơn cả Tôn giáo. Trong Giáo Hội cũng có rất nhiều người lấy việc thủ đắc đất đai quan hệ hơn thủ đắc Nước Thiên Chúa. Đất đáng giá hơn trời, tiền bạc hơn tinh thần, tạm bợ hơn vĩnh cửu.
Người thứ hai viện cớ bận việc. Họ phải thử mấy cặp bò mới tậu. Đúng ra, họ có thể nhận lời nhưng phải là lúc khác. Bây giờ, họ rất bận bịu. Chúng ta thấy hạng người này ở nhiều nơi, nhiều lúc. Họ bị nô lệ cho công việc; tâm hồn không có lúc nào thư thái.
Bị lôi cuốn vào guồng máy hoạt động họ không còn thì giờ và thảnh thơi để lo đến việc trọng đại đời đời và nghĩ đến vận mệnh đích thực của mình.
Sau cùng, những nhu cầu của tình yêu và xác thể được người thứ ba đưa ra để kiếu từ. Nơi nhiều người, tình dục thắng lướt cả những nhu cầu thiêng liêng, và bản năng đã ràng buộc họ. Họ hoàn toàn chìm đắm trong dục tình và không còn gì là linh thiêng nữa. Với họ, tôn giáo hình như là một vùng đất xa xăm, một thực tại lạ lùng.
3. Những người được tuyển chọn
Tuy nhiên, Nước Thiên Chúa cuối cùng cũng phải thành hình. Điều mà Đức Giêsu đòi hỏi gia chủ trong đoạn trên thì chính Ngài sẽ thực hiện. Những người ‘ăn xin, què quặt, mù loà và bất toại được mời vào dự tiệc’. Hạng người đáng thương bị các luật sĩ khinh bỉ có cơ hội ở trong Nước Thiên Chúa. Những người bị các biệt phái bài bác, thực tế lại là những kẻ được chọn.
Lời mời được tống đạt một lần nữa, dọc theo đường đi và các bờ rào mà đến với những người không quen, những người ở xa, những người chẳng có liên hệ gì cả. Trường hợp của Israel đã đưa đến biện pháp hoạt động sứ vụ nơi dân ngoại. Họ gia nhập từng đoàn. Trong thư gửi tín hữu Rôma, th. Phaolô bình luận mầu nhiệm này:
Theo lối so sánh của thánh nhân thì: ngành cây Israel đã bị chặt khỏi thân cây Ô-liu (tượng trưng cho Đức Kitô). Nhưng gốc cây không mất sinh lực. Ngành cây dân ngoại được tháp vào đó và như thế cây Ô-liu đã sinh hoa kết trái không ngờ. Ở đây, mầu nhiệm Thiên Chúa chọn lựa được bày tỏ rõ ràng.
Đó cũng là điều khích lệ các Kitô hữu. Trong tiệc cưới trên Nước trời, người ta sẽ thấy có những người vắng mặt: giáo hoàng, giám mục, linh mục, đan sĩ, tu sĩ, giám đốc hội đoàn, các chức sắc trong Giáo Hội, những người nhiệt tâm hoạt động; việc họ không có mặt khiến người ta ngạc nhiên, nhưng có tìm cũng vô ích thôi.
Bù lại, người ta thấy có những kẻ không ngờ, họ không gia nhập Giáo Hội hữu hình, nhưng nối kết với Đức Kitô trong tâm hồn mà không ý thức, như vậy cũng là thuộc về Giáo Hội. Trong Giáo Hội, có những người bề ngoài chưa được tốt, nhưng vì có ý thức tội lỗi của mình nên đã tìm được con đường về với Thiên Chúa nhờ hối cải và sám hối.
Cũng có những người đơn sơ, ngây thơ, sống âm thầm mà vác thánh giá, đồng thời cố gắng chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống thường nhật. Những kẻ được chọn thực sự lại khác với những người thiên hạ thường nghĩ. Và nhà của Chúa cũng sẽ đầy người…
Trong khi Chúa tiến về Giêrusalem, và cảm thấy sức đề kháng của quần chúng. Lời huấn dụ của Ngài ngày càng có tính chất trang trọng và nghiêm khắc, tuy nhiên vẫn có mầu sắc lạc quan. Vì căn nhà Chúa đến để xây dựng thì Ngài sẽ dành cho những người biết đền đáp tình thương của Ngài.
TỪ BỎ (14, 25-33)
Nếu trong đoạn trước, khung cảnh bên ngoài của bữa tiệc khiến đoạn văn được thống nhất, thì ở đây, mọi lời Chúa nói đều quy về một ý niệm sâu xa là sự thoát ly và từ bỏ.
Nhiều đám đông dân chứng dấn bước theo Thày. Họ tưởng là noi gương Thày cũng dễ thôi, và trong lúc hăng say nhất thời, mọi chuyện họ đều coi là thường. Chính vì lẽ đó, Chúa Kitô, một cách từ tốn nhưng không kém phần nghiêm trọng, đã đặt ra cho thính giả đang nghe Ngài, là các môn đệ, một điều kiện gắt gao.
1. Yêu sách
Người nào muốn theo Ngài hẳn phải cởi bỏ mình khỏi những gì ràng buộc mình nhất. Người đó phải cắt đứt liên hệ với gia đình,, tức là những liên hệ huyết nhục: ‘cha mẹ, vợ con, anh chị em’. Tình gia tộc huyết thống đã được ghi khắc trong bản tính loài người, và thêm đậm đà thắm thiết nhờ những tháng dài chung sống với nhau.
Thế nhưng Thiên Chúa còn quí giá hơn gấp bội, và hết thảy mọi quyền lời phàm nhân đều phải nhường bước trước những quyền lợi Thiên Chúa. Quyền lợi của Thiên Chúa ràng buộc con người đến độ mọi thứ liên hệ khác hoá ra vô hiệu.
Theo kiểu diễn tả lạ kỳ của Kinh Thánh, thì Chúa là Thiên Chúa hay ghen. Tình yêu mà Ngài đòi hỏi phải toàn diện và tuyệt đối, để về phần Ngài, tình yêu của Ngài cũng làm mãn nguyện những kẻ được tuyển chọn. Người ta chỉ có thể hiểu được bí nhiệm trọng đại đó, chỉ có thể tiến sâu vào ngôi thánh điện này một khi hoàn toàn thoát ly khỏi tạo vật. Người ta chỉ vào phòng loan với Chúa một thân một mình mà thôi.
Còn hơn thế nữa: con người đó lại phải từ bỏ ‘chính bản thân mình’. Thân phận con người hoàn toàn tự nhiên, với những ước muốn, những nhớ nhung, bản năng tự cao tự đại, lòng ham sinh uý tử, địa vị của mình trong xã hội và đồng loại, tất cả những cái đó phải được từ bỏ hoàn toàn.
Như cánh bướm kia thoát thân từ caí kén, con người mới sẽ một lần nữa rời bỏ cung lòng người mẹ để tái sinh trong cuộc sống mới. Đức Kitô còn đòi hỏi hơn nữa: con người đó phải ‘ghét’ tha nhân cũng như chính mình vậy. Như thế không chỉ có ý nói đến sự xa cách về không gian, sự chấp nhận những thua thiệt, sự từ bỏ tiệm tiến và hầu như không cảm thấy, nhưng đây là một sự từ khức mãnh liệt, có ý thức, đớn đau ở mọi nơi mọi thời.
Khi gặp phải chống đối hoặc ngay cả khi Thiên Chúa hay những nhu cầu linh thiêng coi như dửng dưng xa cách, lúc đó con người sẽ phải lựa chọn, phải quyết định trước một ngã ba đường nan giải.
Còn phải đi xa hơn nữa: ‘Ai không vác khổ giá mình, ắt không thể là môn đệ Ta’. Bị đóng đinh có nghĩa như bị xã hội coi như là nguy hiểm và đại ác. Thập giá đem lại cái gì? Thưa, bị bạo lực nghiền nát, bị hành hạ, xua đuổi, chết chóc, một cuộc đời kết thúc ô nhục và đẫm máu.
Trên tất cả, có một lời soi sáng và biện minh cho yêu sách tiệm tiến đó: ‘Kẻ nào theo Ta, kẻ nào muốn làm môn đệ của Ta’. ‘Ta’ và ‘của Ta’ ở đây ám chỉ Chúa Kitô. Theo Ngài là bước đi trong con đường của Ngài, là được làm môn đệ của Ngài, là được dõi bước theo Ngài. Ngài là một vị Thày thật cao cả, tình yêu thương của Ngài quá mạnh mẽ,những điều Ngài đòi hỏi quả chính đáng, uy thế của Ngài mãnh liệt đến độ mọi cái khác đều phải lùi bước.
Khi đã tận hiến hoàn toàn cho Chúa, không thể nào sống dễ dãi, tiện nghi nữa, mà chỉ còn Thiên Chúa độc quyền đòi hỏi và tình yêu hướng về đối tượng độc nhất.
2. Soi sáng
Giáo huấn này thật là quan trọng, khiến Chúa Giêsu phải soi sáng bằng ba ví dụ. Thứ nhất: việc xây tháp. Cũng như không thể xây một cái tháp mà không có một đồng xu dính túi, thì người ta chẳng thể xây dựng đời sống theo Đức Kitô một cách tươi vui khi không có sự từ bỏ hoàn toàn. Sự hy sinh phải được coi là điều kiện tiên quyết, một giả thuyết nền tảng.
Thí dụ thứ hai là cuộc chiến. Ông vua cần có binh lính mới chinh phục được chỗ này chỗ nọ; người môn đệ cũng cần phải có sự từ bỏ để chiến đấu chống lại thù địch của Thiên Chúa. Trong trận chiến trần gian, binh giáp là điều kiện tiên quyết thì hy sinh cũng là điều kiện rất cốt thiết cho cuộc chiến đấu thiêng liêng: ‘Ai trong anh chị em không từ bỏ hết thảy của cải mình đi thì không thể làm môn đệ của Ta’. Trong hai thí dụ trên đây có một sự đảo lộn giá trị. Tiền bạc là một động lực hữu hiệu để xây tháp cũng như muốn chiến tranh cần phải có ba quân chiến sĩ.
Ta cũng phải kết luận rằng: muốn phục vụ Đức Kitô, con người cần phải có những giá trị tích cực. Nhưng hai hình ảnh lại có ý nghĩa trái ngược. Đối với thế gian, chiếm hữu là cơ bản; còn trong việc theo gương Chúa Kitô, sự không-chiếm-hữu, sự từ bỏ mới chính là điều quan trọng hơn hết. Chúa Kitô là và phải là tất cả. Từ bỏ đối với Đức Kitô không nghĩa là một tặng phẩm với hậu ý được đền đáp.
31. Chọn lựa Thiên Chúa là duy nhất_ An Phong, OP
Tin mừng chúa nhật 23 thường niên C gồm hai phần. Phần đầu là lời kêu gọi từ bỏ con người mình, vác thập giá theo chân Chúa Giêsu. Phần thứ hai là dụ ngôn "xây tháp" và "đi giao chiến". Ý nghĩa chính của hai dụ ngôn này là trước khi tiến hành một công việc quan trọng, người ta phải xem xét mình có đủ khả năng, nguồn lực để đạt được thành công hay không. Và cuối cùng là lời áp dụng "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được". Lời kết luận này là giáo huấn, là lời mời gọi cho tất cả mọi kitô hữu, những người môn đệ của Ðức Giêsu.
Ðức Giêsu mời gọi hãy từ bỏ. Từ bỏ là một thái độ sống thực tế của người kitô hữu. Từ bỏ nghĩa là hy sinh vì lý tưởng, vì Thiên Chúa. Người kitô hữu từ bỏ không phải là điều kiện để trở nên một môn đệ Ðức Giêsu, nhưng là điều kiện để luôn luôn trung thành là người môn đệ. Là người môn đệ tức là luôn chọn lựa Ðức Giêsu là Hy vọng, là Ðường, Sự thật và Sự sống. Là người môn đệ tức là dấn thân hết mình, đi cho trọn đường của người môn đệ, đừng như người ta khởi công xây tháp nhưng không thể hoàn thành được, hay đừng như ông vua kia đã ra trận nhưng không chiến thắng được.
Bền bỉ, kiên trì, đi cho trọn đường, đó là thánh giá đời người. Ðể là người môn đệ đích thực của Ðức Giêsu, cần phải bền bỉ, triệt để. Ðức Giêsu muốn những ai theo Người phải đi trọn đường thánh giá của mình. Thánh giá tức là những chọn lựa trong hiện tại, được lập đi lập lại và liên tục. Sống trong cuộc đời, chúng ta luôn bị đặt trong tình huống phải chọn lựa. Ðã chọn lựa là không thể chọn lấy tất cả, đã chọn điều này tất phải bỏ điều kia. Việc chọn lựa không luôn luôn dễ dàng. Chỉ có một tiêu chuẩn cho việc chọn lựa, đó là "Thiên Chúa là trên tất cả". Hơn nữa, không luôn luôn dễ dàng để trung thành với chọn lựa Thiên Chúa. Ðể có thể trung thành, cần có một tiêu chuẩn khác nữa, đó là "chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau" (Mc 10,29-30).
Từ bỏ nghĩa là không nhìn nhận những thực tại trần thế là tuyệt đối, có thể thay thế được chính Thiên Chúa. Chúng ta không loại bỏ những thiện hảo của cuộc sống như tiền bạc, của cải vật chất, nghề nghiệp... nhưng chúng ta chỉ nên coi đó là những phương tiện. Chúng ta nhìn nhận những giá trị trần gian là tốt đẹp, nhưng tất cả những giá trị đó phải quy hướng chúng ta đến với Thiên Chúa. Nếu các môn đệ của Ðức Giêsu yêu mến tạo vật của Người hơn chính Người, thì họ không xứng đáng là môn đệ của Ðức Giêsu.
Hơn nữa, việc từ bỏ này cần phải thực tế, tức là gắn liền với cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta có thể hiểu được điều này khi nhìn vào cuộc đời của những người hy sinh cho một lý tưởng mà họ đã chọn lựa. Những người đó dám chấp nhận từ bỏ đời sống gia đình, riêng tư của mình. Họ dám hy sinh thời giờ, sự an toàn và thậm chí cả sức khỏe của mình để hoàn thành sứ mạng.
Phải chăng chúng ta chọn lựa Thiên Chúa là ưu tiên trên hết ?
Phải chăng chúng ta đang kiên trì, trung thành với chọn lựa là người kitô hữu, người môn đệ của Ðức Giêsu qua nhiệm tính Thanh tẩy ?
Lạy Chúa,
Ðể con có thể gắn bó với Ngài tha thiết hơn nữa,
con ước mong ý thức con trở nên bao la như trời biển,
mênh mông như vũ trụ,
trải rộng như loài người khắp mặt đất,
sâu thẳm như quá khứ, sa mạ, trùng dương,
tinh vi như hạt nhân nguyên tử,
thâm thúy như tư tưởng của lòng người.
Phải chăng con cần gắn liền với Chúa
từ mọi địa điểm của vũ trụ bao la này,
và để con đừng sa chước cám dỗ rập rình
trong mọi hành vi táo bạo,
để chúng con đừng bao giờ lãng quên là
chỉ có Chúa mới đáng được tìm kiếm qua mọi sự.
32. Chọn Chúa trên hết_ Fr Jude Siciliano, OP
Ý Chính: Khôn ngoan của Thiên Chúa thường làm cho loài người thấy mình trật đường. Bởi cái nhìn của nó không giống như của chúng ta (Cựu ước). Đức Kitô là sự khôn ngoan thần linh đó. Ngài dạy chúng ta con đường thánh giá và từ bỏ, ngược với những ước vọng xác thịt (Tin Mừng). Người tín hữu phải tháo gỡ não trạng của mình để nhìn thấy Đức Kitô trong kẻ khác mà phục vụ. Thánh giá và từ bỏ ngầm chứa trong công việc đó (Thánh Thơ).
Thưa quý vị.
Sau khi đọc bài Tin Mừng hôm nay, tôi nảy ra tư tưởng muốn xin lỗi cộng đoàn, bởi lẽ cái giọng điệu "ngược đời" của nó. Đúng vậy. Để làm môn đệ Chúa người ta phải dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em mình, và cả mạng sống nữa". Rồi Chúa Giêsu còn nhấn mạnh thêm: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được."Hẳn đám đông chen chúc theo Ngài lên Giêrusalem lúc ấy phải ngạc nhiên về giáo lý lạ lùng của Ngài. Họ đang hồ hởi theo chân Ngài để được phần vinh hiển khi Ngài thành công ở Thành Thánh. Họ nghĩ thầm: Hẳn ông tiên tri này ở hành tinh khác đến. Ông tuyên bố những điều chẳng hợp với luân lý thói thường. Trên dương gian ai mà không có tình cảm sâu đậm với cha mẹ, vợ con, hàng xóm láng giềng, bạn bè thân thích? Bổn phận đạo đức của mọi người là phải yêu mến họ, phụng dưỡng khi về già, giúp đỡ khi còn trẻ, thăm nom khi yếu đau, quà bánh khi vắng lâu! Vậy mà vị ngôn sứ lại đòi hỏi phải "ghét" họ để được làm môn đệ của Ngài: như thế có nghĩa làm sao?
Thời nay tỷ lệ ly dị, cắt đứt hôn phối, hoặc ly thân sống mỗi người mỗi ngả trong xã hội nhiều quốc gia tân tiến là xấp xỉ 50%. Nghĩa là cứ hai đôi, thì một đôi gặp trục chặc, mặc cho những cố gắng của các toà án hoà giải, các giáo xứ, địa phận. Nhiều nơi còn tổ chức giáo lý hôn nhân, phong trào nuôi dưỡng gia đình trẻ, tổ ấm? Thực tế hiệu quả chẳng được bao nhiêu. Vậy thì lời rao giảng của Chúa Giêsu "ghét vợ con" có nghĩa thế nào trong cộng đoàn chúng ta ? Nhất là đối với các cặp vợ chồng, những thanh niên nam nữ sắp thành hôn ? Danh sách "ghét" của Chúa còn dài lắm. Nhưng quý vị hẳn đã hiểu ra vấn đề. Có thể nào Chúa Giêsu thực sự tuyên bố nảy lửa như vậy trong lời rao giảng của mình ? Và nếu đó là sự thật, thì thử hỏi có ai trong chúng ta dám từ bỏ mọi sự mà theo Ngài ? Hoặc nếu biết ai đã thực hiện như vậy không ? Lúc đó ai là người đứng ra cung cấp các nhu cầu cho họ? Cơm ăn, áo mặc, thuốc men, nhà cửa, bảo hiểm, y tế, tuổi già và trăm ngàn thứ sự cần thiết khác ?
Cho nên, đây là lúc chúng ta phải nghiên cứu kỹ lưỡng Thánh Kinh, tìm ra ý nghĩa thực của nó. Trên môi miệng Chúa Giêsu, chúng ta luôn được nghe những lời bí nhiệm như vậy. Trong ngôn ngữ đông phương từ "ghét" có nghĩa tương đối. Yêu cái này hơn cái khác, tức bao gồm sự so sánh. Điều này có ý nghĩa khi chúng ta nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, hay trong thời kỳ cấm đạo, các tín hữu bị quan quyền bách hại, người ta chọn lựa Thiên Chúa hơn gia đình, bạn bè, của cải hay ngay cả sự sống bản thân. Lúc ấy, chúng ta có thể dùng từ "ghét" đối với các giá trị trần gian. Chứ nó không có nghĩa một tình cảm giận dữ, điên khùng, thù hận, đối nghịch với yêu thương. Nói cách khác "ghét" trong bài Phúc âm hôm nay là yêu ít hơn so sánh với yêu mến Thiên Chúa. Các gắn bó với của cải trần gian, cha mẹ, họ hàng đứng xuống hàng thứ hai. Xin nhớ điều răn thứ bốn buộc nhân loại phải hiếu kính cha mẹ tổ tiên và Chúa Giêsu truyền cho các môn đệ yêu luôn cả kẻ thù. Vậy từ "ghét" ở đây là chọn lựa Chúa trên mọi sự, phụng sự Người trước khi thi hành các bổn phận khác. Các tu sĩ nam nữ chẳng hạn, họ từ chối lập gia đình để hiến dâng tình yêu cho Thiên Chúa trong lời khấn khiết tịnh. Điều đó không có nghĩa họ phải ghét cha mẹ, họ hàng và đời sống gia đình nơi kẻ khác. Một thí dụ nữa: Ngay sau khi nói đến chuyện ghét, Ngài tiếp luôn phải vác thập giá mình mà theo. Chẳng ai hiểu câu này có nghĩa là thu xếp chịu đựng hiền hoà các đau khổ của cuộc đời, mà là "chọn" con đường thánh giá, chịu đựng các khó khăn, nghịch cảnh với lòng can đảm để có thể chu toàn thánh ý Đức Chúa Cha, như Ngài đã chọn. Thánh giá chẳng bao giờ dễ chịu, thoả hiệp với đau khổ chẳng khi nào thành công. Nhưng can đảm đi theo ý muốn Thiên Chúa làm cho lòng chúng ta mở rộng, trở nên cao thượng, xứng đáng làm môn đệ Chúa Giêsu. Đây là những đòi hỏi nghiêm khắc của cuộc sống người Kitô hữu.
Sau khi tuyên bố những điều trên, Chúa còn tiếp tục đưa ra những điều kiện khác để theo Ngài bằng hai dụ ngôn nhỏ: Người xây tháp canh và ông vua đi giao tranh. Xin đừng nghĩ những thính giả thời Chúa Giêsu bằng lòng với những tuyên bố của Ngài. Họ nghèo, nhưng họ quý trọng những tài sản nhỏ bé của mình và giống như chúng ta họ khao khát chiếm hữu thêm. Gia đình thời ấy quan trọng hơn ngày nay. Bây giờ chúng ta đánh giá cao cá nhân và cố gắng tự cung tự cầu, độc lập khỏi mọi lệ thuộc. Thời Chúa Giêsu ngược lại, căn cước của mỗi cá nhân hoàn toàn gắn chặt vào dòng tộc, gia đình, bộ lạc, giáo phái. Tiếng tăm, danh thơm của cá nhân nối kết chặt chẽ với địa vị người đó có trong xã hội, gia đình mình. Nếu một cá nhân quyết định cắt đứt liên hệ với gia đình, xóm làng, thì tức khắc không còn căn cước nữa. Trước bối cảnh như vậy, việc từ bỏ mọi sự mà theo Chúa thật khó khăn nếu không muốn nói là ngược đời. Tuy nhiên việc đó lại là điều kiện tiên quyết để làm môn đệ Chúa. Ở phần trên Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nói rõ những đặc điểm của mối quan hệ gia đình mới Ngài dự tính thiết lập, tức Hội thánh. Trong gia đình này những thành viên là các kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa (8,21; 11,27). Như vậy những ai muốn gia nhập Hội thánh của Ngài để được cứu rỗi, thì nhất định phải đặt các mối liên hệ khác xuống hàng thứ yếu, ngay cả nhiều khi phải gạt chúng sang một bên, nếu cần thiết, để dành ưu tiên cho các đòi hỏi của Ngài. Thí dụ: Trong trường hợp các tông đồ và tử đạo.
Như những kẻ theo Chúa, chúng ta ở trong mạng lưới quan hệ mới, một gia đình gồm toàn những người được Chúa chọn để theo Ngài. Trong gia đình này bất kể sang hèn, giàu nghèo đều có vị trí xứng đáng. Hai tuần vừa qua Chúa tuyên bố: "Người ở hàng đầu sẽ xuống chỗ chót và người ở chỗ chót sẽ lên hàng đầu". Tức Đức Giêsu đến để xây dựng một trật tự hoàn toàn khác với thói thường. Hệ thống bình đẳng này quả thật là một cú sốc cho những ai từng có những quan hệ trật tự tốt trong môi trường tự nhiên. Tôi nhớ lại thời còn phục vụ tại một khám đường quốc gia. Hôm ấy là chủ nhật, tôi đi bộ qua sân nhà tù với một số người tình nguyện mới đến. Họ là những tín hữu từ giáo xứ lân cận. Họ hy sinh nghỉ ngơi với gia đình và bạn bè để đến tham dự thánh lễ ở nhà nguyện khám đường. Một người trong họ khi đi qua sân thấy hàng trăm tù nhân di chuyển chậm rãi trong sân thì bật miệng nói với tôi: "Cảnh này thật sự kéo dãn con ra". Anh chàng dùng sai từ, ý anh muốn nói: Cảnh này làm con lạ quá ! Lần đầu tiên, anh được mục kích hàng trăm người từ từ đi vào nhà nguyện. Nhưng bởi vì quen từ ngữ xã hội, nên anh dùng từ "căng ra" (stretching). Đúng, anh sẽ mở rộng tầm nhìn khi cùng hàng trăm tù nhân tham dự thánh lễ. Lúc ấy quý vị có thể đoán được thâm tâm anh ta tự hỏi: "Làm thế nào tôi lại lọt được vào đây?" Theo Chúa Giêsu là cơ hội để anh căng ra khỏi bối cảnh quen thuộc của mình mà vươn tới các quan hệ mới, thế giới mới. Từ đấy, anh tiếp tục lui tới khám đường và trở nên thân thiết với tù nhân, gia đình mới của anh và anh được phép hãnh diện khoe với thiên hạ: "Anh em tôi trong nhà tù". Đúng là một quang cảnh "dãn ra".
Viết đến đây, tôi lại nhớ đến câu chuyện của người Trung Hoa: Vua Cung Vương nước Sở đi săn, giữa đường đánh mất cái cung. Các quan theo hầu cố xin tìm cho được. Vua Cung Vương nói: "Thôi tìm làm gì nữa. Người nước Sở đánh mất cung, lại người nước Sở nhặt được cung, đi đâu mà thiệt! Đức Khổng Tử nghe truyện bảo: "Đáng tiếc cho cái lòng vua nước Sở, không suy rộng hơn được nữa! Hà tất phải nói: "Người nước Sở? Giá nói: "Người đánh mất cung, lại người bắt được cung, thì chẳng hơn ư?" (Thuyết Uyển). Lại một thí dụ nữa về tấm lòng rộng mở!
Tuy nhiên, không nên hành động bừa bãi, ngược lại, phải đắn đo kỹ lưỡng khi làm một việc gì, ngay cả việc theo Chúa, xem mình có đủ sức lực đi trọn con đường. Chúa Giêsu cảnh cáo tín hữu bằng hai ngụ ngôn nhỏ. Người xây tháp canh và ông vua cất công đi giao chiến. Xin để ý từ ngữ Thánh Kinh: "xây dựng" và "cất công". Từ thứ nhất gợi ý một công việc lâu dài, đòi hỏi kiên nhẫn như quá trình xây cất. Đôi khi chúng ta cảm thấy thất vọng và chán nản bởi không tiến bộ được nhiều trên con đường nhân đức. Còn nhiều tội lỗi, khuyết điểm, bất toàn trong hành trình làm môn đệ Chúa ở trần gian! Chúng ta cần nghị lực và kiên nhẫn, chưa ai dám nhận mình là gương mẫu! Chưa ai dám vỗ ngực về lòng rộng rãi, từ bỏ, hy sinh như Chúa đòi hỏi. Vậy xin đừng nản chí, công việc xây tháp không phải là một sớm một chiều. Nó chưa hoàn thành mà. Nó còn đang trong tiến trình xây dựng: Hay như người người ta thường nói: "Xin kiên nhẫn với tôi, Thiên Chúa còn đang đợi chờ tôi, Ngài đã phạt tôi đâu !" Từ thứ hai, cất công giao tranh, từ này gợi ý chúng ta phải dừng lại và suy nghĩ trước khi quyết định làm việc chi, nhất là trước những đòi hỏi hy sinh làm môn đệ Chúa. Chúng ta có đủ sức mạnh hay không, đủ ý chí hay dễ chán nản tháo lui? Đây là một ẩn dụ khắc nghiệt trong thời kỳ đầy dẫy chiến tranh này. Tuy nhiên nó nói lên những phấn đấu không ngừng, những hy sinh vượt bậc người môn đệ Chúa phải gánh chịu trên con đường theo Ngài. Mặc dầu, ngay cả khi chúng ta đủ quyết tâm theo Chúa, nhưng có những lúc, những thời gian, phải đưa ra quyết định khó khăn để trung thành với ơn gọi.
Trong cuộc đời người tín hữu đầy dẫy những hoàn cảnh này, và không mấy ai tránh khỏi lỗi lầm! Ngược lại, nhiều trường hợp chúng ta phải nói "không" cho những cám dỗ, những lựa chọn xem ra hấp dẫn. Vì thế có những va chạm, cãi cọ, tranh đấu với gia đình, bạn bè hoặc với nếp sống văn hoá chung quanh. Đây là điều người đang ưa đem ra bàn tán để tung hoả mù. Thí dụ, ngừa thai, phá thai, ly dị, linh mục kết bạn. Nhưng chúng ta phải lựa chọn con đường trung thành với Phúc âm. Chẳng quyền lực nào trên thế gian, kể cả vua chúa, Đức Giáo Hoàng, nhà độc tài có thể nói "được" cho vấn đề ly dị. Vậy nên trong những thời gian như thế này, bài Phúc âm hôm nay nhắc nhớ mọi người rằng mình đang ở trong hoàn cảnh "xây tháp", cần nghị lực, tài nguyên để hoàn thành công việc. Hay đang dự tính cất quân đi đánh giặc. Một trăm ngàn quân có thể đương đầu với 200 ngàn được không? Nghĩa là nếu muốn thành công thì phải tập trung mọi cố gắng và tài nguyên. Liệu chúng ta có đủ khôn ngoan để đưa ra quyết định đúng? Đủ can đảm để trả giá công việc? Hoặc đủ kiên nhẫn để chịu đựng những hậu quả? Tôi nghĩ có lẽ không. Chẳng ai trong chúng ta có đủ quyết tâm, sức mạnh và khôn ngoan tự thân. Chúng ta phải cậy nhờ vào ơn Chúa.
Cho nên, chúng ta phải năng lui tới thánh đường, tụ họp với nhau để lắng nghe lời Chúa dạy, rồi cùng nhau tiến tới bàn thánh để lãnh nhận lương thực hằng sống. Xin nhìn chung quanh để thấy những kẻ tới đồng bàn với chúng ta! Họ không phải là những người chúng ta thường gặp hàng ngày, hay chỗ quen biết. Họ từ khắp nơi tới, không cùng vị trí kinh tế, chính trị, học thức như chúng ta. Nhưng họ cùng ở đây với chúng ta, trong ngôi nhà đầy ắp yêu thương và nhân ái, gọi nhau bằng anh chị em, cùng cầu nguyện, xin ơn với nhau, chung tiếng ca ngợi Thiên Chúa trong cùng lời kinh tiếng hát. Như vậy, tất cả chúng ta đang thuộc về gia đình mới, gia đình của Chúa Giêsu. Điều này làm dãn lòng chúng ta ra, phải không? Đúng như Chúa Giêsu tiên báo khi Ngài mời gọi đám đông trên đường đi lên Giêrusalem. Họ đã chọn Ngài làm ưu tiên số một trên cuộc đời mình. Ước chi mọi tín hữu hoàn cầu đều được tâm tình như vậy. A-men.
33. TỰ DO HAY LÀ CHẾT_ Như Hạ, OP
Con người khao khát tự do, nhưng cũng cần một hướng để xác định rõ mục tiêu cuộc sống. Nếu không, cuộc đời sẽ phí phạm và vô nghĩa. Ðức Giêsu đem lại cho nhân loại một phương hướng giải thoát hoàn toàn.
GIẢI THOÁT HOÀN TOÀN.
Tự do vẫn là khát vọng muôn đời. Nhưng cho tới nay, con người vẫn chưa đạt được giấc mơ đó. Bởi vậy, Ðức Giêsu mới đến để mạc khải cho mọi người biết tự do là một hồng ân của Thiên Chúa, chứ không phải của con người. Thực vậy, "chính để chúng ta được tự do mà Ðức Kitô đã giải thoát chúng ta" (Gl 5:1) bằng cái chết trên thập giá. Nhờ đó, Người trở thành Môsê mới đưa Dân Chúa vào Ðất Hứa. Người được tôn làm Ðức Chúa. "Người đã lên cao dẫn theo một đám tù" (Ep 4:8) tức là nhân loại trong vòng xiềng xích quỉ ma. Nếu không trút bỏ hoàn toàn mạng sống, Người đã không thể nào giải thoát toàn thể nhân loại.
Thầy đã vạch đường. Muốn làm môn đệ, phải bước theo Thầy. Ðúng là "trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ." (Mt 10:24) Ðó là lý do tại sao Ðức Giêsu quyết liệt đòi hỏi: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Lc 14:16) Có đòi hỏi nào khủng khiếp hơn không ?! Ðiều kiện theo Người quá khắt khe ! Thực ra, "dứt bỏ" chỉ là giá phải trả cho tự do. Dứt bỏ những liên hệ gia đình phải chăng làphủ nhận những giá trị lớn lao đó ? Không phải thế. Nhưng đòi hỏi như thế, Người muốn mạc khải mình là một giá trị tuyệt đối, vượt trên mọi giá trị trần gian. Không có một giá trị nào cao cả và thân thiết hơn Người. Bởi vì tất cả mọi giá trị đều tương đối và mau qua. Chỉ một mình Người mới toàn hảo, toàn chân, toàn mỹ. Trong Người có thể tìm thấy mọi sự. Người mở lối vào Ðất Hứa.
Trên đường về Ðất Hứa, nhiều mối nguy hiểm chất chồng. Nguy hiểm lớn nhất là cái tôi của mình. Thập giá có mặt khắp nơi và đủ mọi chiều kích. Tin hay không, con người vẫn phải vác thập giá. Nhưng có nhiều người vác thập giá theo cái tôi của mình. Không lối thoát. Cả một cơn hỏa mù dầy đặc. Trái lại, khi vác thập giá theo Ðức Giêsu, người ta có thể có một hướng đi lên tới tận nguồn sống. Vì chỉ có Người "là con đường, là sự thật và là sự sống." (Ga 14:6) Không thể có con đường giải thoát nào khác ngoài Ðức Giêsu Kitô.
Người chính là một bảo đảm lớn lao cho sự tự do của con người. Ðúng hơn, Người là suối nguồn tự do. Thật vậy, "Thiên Chúa Cha đã ra tay uy quyền nâng Người lên, trao cho Người Thánh Thần đã hứa, để Người đổ xuống" (Cv 2:33) trên tất cả những ai tin vào Người. Vậy mà, "ở đâu có Thần Khí của Chúa, thì ở đó có tự do." (2 C 3:17) Bởi thế, nếu đòi hỏi môn đệ "dứt bỏ", Ðức Giêsu chỉ muốn người môn đệ hoàn toàn tự do, thoát khỏi mọi vướng mắc tình cảm và của cải. Người quả quyết: "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được."(Lc 14:33) Còn bám víu vào những giá trị trần thế đó, con người không thể bay bổng theo Người.
Bay bổng không có nghĩa là xa rời thực tế. Trái lại, Ðức Giêsu nhấn mạnh: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được." (Lc 14:27) Thập giá là những thách đố rất thực tế trong hoàn cảnh và thân phận con người. Tuy nhiên trong Tin Mừng Luca, Ðức Giêsu mới chỉ đòi hỏi hi sinh mạng sống, quyền sở hữu và những thứ tình cảm bên ngoài. Ngay cả mạng sống cũng chưa phải là điều gì thâm sâu lắm. Nhưng trong Tin Mừng Mathêu và Marcô, Ðức Giêsu quyết liệt hơn: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình." (Mt 16:24; Mc 8:34) Từ bỏ chỉ là mặt trái của tự do. Càng từ bỏ càng thanh thoát. Như vậy, khi từ bỏ, con người hoàn toàn tan biến trong Ðức Giêsu. Chính thánh Phaolô đã cảm nghiệm sâu xa về sự thật đó: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Ðức Kitô sống trong tôi." (Gl 2:20) Nghĩa là, khi đã từ bỏ hoàn toàn, thánh nhân cảm thấy mình như bay bổng trong bầu trời tự do là Ðức Giêsu.
Trong tinh thần đó, thánh nhân đã đề nghị với ông chủ Philêmôn nhận lại người nô lệ Onêsimô như "một người anh em rất thân mến, cả về tình người cũng như về tình anh em trong Chúa." (Plm 16) Nếu không cùng chia sẻ một niềm tin nơi Ðức Kitô, làm sao thánh nhân dám nói như vậy ? Thánh nhân còn nhấn mạnh: "Nếu anh coi tôi là bạn đồng đạo, thì xin anh hãy đón nhận nó như đón nhận chính tôi." (Pl. 17) Thực tế, niềm tin Kitô mạc khải cho chúng ta thấy: "Không còn chuyện phân biệt Do thái hay Hi lạp, nô lệ hay tự do, đàn ông hay đàn bà ; nhưng tất cả anh em chỉ là một trong Ðức Kitô." (Gl 3:28) Còn phân biệt tức là chưa từ bỏ để hòa mình với mọi người.
Chưa hòa mình với mọi người chưa thể làm môn đệ Ðức Kitô. Vì Ðức Kitô đã chết là để hòa giải muôn loài (x. Cl 1:20) Muốn tiếp nối sứ mạng đó, người môn đệ phải tìm hiểu rõ ý Chúa. Trong khi sách Khôn Ngoan băn khoăn về thánh ý Thiên Chúa (Kn 9:13), thì Ðức Giêsu quả quyết: "Ý của Cha tôi là tất cả những ai thấy người Con và tin vào người Con, thì được sống muôn đời." (Ga 6:40) Sứ mạng người Con đã được xác định rõ: "Nếu người Con có giải phóng các ông, thì các ông mới thực sự là những người tự do." (Ga 8:36) Tại sao được chia sẻ sứ mệnh cao cả như thế người môn đệ lại phải lệ thuộc vào những ranh giới chủng tộc, văn hóa, quốc gia . để không thèm nhìn đến người anh em ? Ðó là một phản chứng tệ hại nhất trong hàng ngũ những môn đệ Chúa Kitô. Tất cả sứ mệnh lớn lao đều tùy thuộc chứng từ hòa giải này.
GIẢI PHÁP THỰC TẾ.
Chứng từ hòa giải đó đang gặp khủng hoảng ngay chính trong cộng đồng dân Chúa. Khủng hoảng vì con người chỉ biết luẩn quẩn trong cái tôi của mình. Chẳng hạn, theo ÐHY Cormac Murphy-O' Connor, não trạng thời nay cho rằng: "chỉ có cái gì tôi thích mới tốt, chỉ mình tôi mới có những quyền đó và chỉ có một cuộc sống có ý nghĩa hay giá trị đó là cuộc sống tôi muốn chọn cho chính mình." (CWNews 6/9/2001) Thật là một bế tắc. Bế tắc đó bắt nguồn từ "một cuộc khủng hoảng đức tin đang ảnh hưởng tới toàn thể cộng đồng Kitô giáo ." (CWNews 6/9/2001) ÐHY nói về Giáo hội Anh quốc trước Hội Nghị Linh Mục Quốc gia tại Leeds như sau: "Giới trẻ ngày nay, và không phải chỉ có bạn trẻ, đang thờ ơ trước những giá trị Kitô giáo và Giáo hội." (CWNews 6/9/2001) Nói khác, các bạn trẻ đang mất hướng. Sau khi đã nhận định như thế, ÐHY dí dỏm: "Chúng ta tự hỏi phải chăng vì chúng ta chưa cố gắng xem chính xác dân đang ngứa ở chỗ nào. Và họ đang ngứa thật." (CWNews 6/9/2001) Muốn đáp ứng nhu cầu cấp thiết của thời đại, theo ÐHY, phải thiết lập các nhóm nhỏ học Thánh Kinh và cầu nguyện. "Các cộng đồng tí hon này là bí quyết cho tương lai Giáo hội." (CWNews 6/9/2001) Vì từ chính những cộng đoàn tế bào đó, dung nhan Ðức Kitô sẽ hiện rõ nét hơn và tiếng Chúa sẽ nghe rõ hơn. Một cộng quá lớn sẽ loãng. Tiếng Chúa như rơi trong sa mạc. Lời Chúa chỉ triển nở trong nơi sâu đậm tình người. Từ đó, những đòi hỏi của Ðức Giêsu mới đạt tới cường độ như Chúa muốn.
Ðòi hỏi môn đệ phải "từ bỏ hết những gì mình có" và cả "mạng sống mình", Ðức Giêsu muốn họ thi hành sứ mạng giải thoát nhân loại. Phải chăng đó là một tính toán khôn ngoan ? Dưới cái nhìn trần thế, hi sinh như vậy chỉ là ngu si và ngông cuồng. Nhưng "cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người." (1 C 1:25) Huống nữa, sự khôn ngoan của Thiên Chúa là chính Ðức Giêsu (x. 1 C 24) còn lớn lao hơn gấp mấy ! Chính "nhờ Ðức Khôn Ngoan (đó) mà (loài người) được cứu độ" (Kn 9:18) !
34. NIỀM VUI LỚN HƠN_ G. Nguyễn Cao Luật, OP
Cuộc đời, chọn lựa và từ bỏ
Trên báo chí, người ta vẫn đọc thấy chuyện về các vận động viên phải hy sinh một số những điều mình ưa thích, chẳng hạn phải kiêng một món ăn nào đó để khỏi tăng trọng lượng, bỏ một thói quen nào đó không phù hợp với môn thể thao mình đang theo đuỗi. Và rồi, họ phải dành nhiều thời gian, nhiều sức lực để tập luyện, nhờ đó thành tích thể thao càng lúc càng được nâng cao.
Trong việc kinh doanh sản xuất, cũng có những người bỏ cả sản nghiệp của mình để mong làm giàu hơn nữa. Ðôi khi người ta giật mình vì có những người bỏ ra hằng trăm triệu để làm vốn kinh doanh. Hoặc có những người nghèo, nhưng say mê một công việc nghiên cứu nào đó, cũng đành phải bán những vật dụng thân thiết nhất của mình để có phương tiện tiếp tục công trình dang dở.
Cuộc đời là như thế, vẫn có những hy sinh, những từ bỏ, vẫn có những lựa chọn, những phiêu lưu. Hy sinh, từ bỏ là chấp nhận mất mát, chấp nhận thiếu thốn và cũng có lúc phải đau khổ, đau khổ xé lòng. Những hy sinh, những từ bỏ ấy có một mục đích: đáp ứng điều mình lựa chọn và tin chắc rằng đó là điều cao hơn, và điều ấy sẽ thành công. Ðó cũng là cuộc phiêu lưu bởi vì sẵn sàng bỏ ra những gì mình đang có để đạt tới điều cao cả hơn.
Từ ý tưởng đó, xin trở lại với bài Tin Mừng. Ðức Giêsu đi "lên" Giê-ru-sa-lem. Phía sau, phía thấp hơn là Na-da-rét, là gia đình thân thuộc, và cả miền Ga-li-lê, nơi Người cảm thấy như nhà của mình, và cũng ở đó, dân chúng đã nghe Người giảng dạy, đã tin Người một phần nào. Phía trước, ở trên cao, là thành đô, nơi những kẻ chống đối Người thường lui tới. Tuy nhiên, Người phải "đi lên", phải đến thành đô, vì tại nơi chốn biểu tượng này, tất cả những điều Người thực hiện từ lâu nay sẽ đi đến kết thúc. Người phải đi lên để chu toàn trọn vẹn thánh ý Chúa Cha, và hoàn tất sứ mạng đã được trao phó. Trước mặt Người là những nguy hiểm đang đợi chờ, cả mối đe doạ đến mạng sống. Người biết rằng ở Giêsu-sa-lem, các đối thủ của Người đang tìm cơ hội, tìm lý lẽ để hại Người. Ðã nhiều lần Người phê phán các hành vi của họ, tố cáo thói giả hình, và cũng đã từng xô đỗ những đặc quyền của họ. Người làm những điều đó vì lòng yêu thương, vì muốn đưa họ đến chân lý, nhưng họ lại coi Người là một đối thủ nguy hiểm, một kẻ phản loạn.
Tất cả những nguy cơ này, Ðức Giêsu biết rõ. Người đi lên Giê-ru-sa-lem, chấp nhận những hiểm nguy. Người không chỉ bằng lòng với những điều đã đạt được ở Ga-li-lê, Người phải thực hiện những điều đó tại Giê-ru-sa-lem nữa, và làm cho những điều Người loan báo đạt tới kết cục toàn vẹn. Người sẵn sàng "bỏ vốn" để đạt được thành công cuối cùng, thành công dứt khoát. Vốn liếng của Người chính là mạng sống chứ không phải điều gì khác.
Ðây thực là một mẫu gương về sự dấn thân. Người Kitô hữu được mời gọi đi lên Giê-ru-sa-lem thiên quốc, bỏ lại những gì mình đang nắm giữ, và đem cả con người mình bước vào con đường hẹp, con đường phiêu lưu với Thiên Chúa.
Chọn Ðức Giêsu hơn tất cả
Trên con đường đi lên Giê-ru-sa-lem, Ðức Giêsu suy nghĩ về tất cả những điều sắp xảy ra. Phía sau Người là các môn đệ, những người đã được Người mời gọi, quy tụ để theo Người và làm chứng cho Người. Như môn đệ của nhóm Pha-ri-sêu, các ông đi theo Người, sẵn sàng lắng nghe những giáo huấn của Thầy. Các ông là những người được Ðức Giêsu tỏ lòng yêu mến. Nhưng liệu các ông có hiểu rõ sứ mạng của Người cũng như những việc Người cần thực hiện ?
Trong tâm trí các ông, Ðức Giêsu đi lên Giê-ru-sa-lem để đón nhận vinh quang, Người sẽ hoàn thành Vương quốc Người đã từng loan báo, và như vậy, chắc hẳn các ông cũng sẽ được thông phần. Các ông đã bỏ mọi sự, cả gia đình thân thuộc, nghề nghiệp và tương lai của mình để đi theo Người, nên lúc này, tâm hổn các ông tràn trề hy vọng sẽ được đền bù xứng đáng. Ðọc lại câu chuyện các ông tranh luận với nhau xem ai là người lớn nhất, và lời thỉnh cầu của bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (xem Mt 20,21), người ta hẳn thấy rõ điều ấy.
Thực ra, đó cũng là chuyện bình thường của con người. Ai chẳng mong rằng những vất vả của mình được đền bù, người nào bỏ vốn ra làm ăn mà không mong thu lời. Thế nhưng, chương trình của Thiên Chúa lại khác. Ðoạn đường các ông đã đi, chưa phải là tất cả. Còn có những khó khăn, những nguy hiểm lớn hơn đang chờ các ông ở phía trước. Như Ðức Giêsu, các ông sẽ còn trải qua những đau khổ ghê gớm hơn nữa, và phần thưởng không phải là cuộc sống vinh quang ở trần gian, nhưng là ở trong Nước Thiên Chúa.
Bấy giờ, Ðức Giêsu biết được những điều đang ám ảnh các tông đồ, Người quay lại và đưa ra một lời cảnh cáo rất ghê gớm: đi theo Người, tức là chấp nhận chương trình của Người, đồng thời chấp nhận luôn những đòi hỏi nằm trong chương trình đó. Những đòi hỏi ấy như thế nào ?
Trước hết là yêu mến Ðức Giêsu hơn tất cả, và mang lấy thập giá của mình. Ðiều này không có gì là phi nhân bản. Ðức Giêsu biết rằng trong cuộc đời vẫn có những chọn lựa nền tảng buộc đặt vấn đề lại. Vào những lúc như thế, người ta thường đưa ra những tình cảm chính đáng nhất như cái cớ để tránh những chọn lựa cần thiết.
Không thể là môn đệ của Ðức Kitô khi vẫn sống theo tính ngẫu hứng, theo một hệ thống tư tưởng. Cần phải ý thức về thân phận của mình, đảm nhận thân phận ấy trong cuộc sống thường ngày, và hoàn thành thân phận ấy, không để cho bất cứ điều gì làm lung lạc, làm biến chất hay tiêu diệt. Ði theo Ðức Giêsu là một cuộc sáng tạo trường kỳ, không được quay lại đàng sau, dù bất cứ vì lý do gì.
Như thế, tính cách độc đáo của Nước Trời đòi buộc nằm ngay ở trong nội tâm mỗi người. Ðó không phải là một việc này việc nọ thành công, cũng không phải là vinh quang vì được người đời nhắc đến. Tính cách này không buộc người ta phải trở thành những anh hùng, nhưng là vượt qua chính mình ; nó cũng không kêu gọi con người sống cách tuỳ thích, nhưng kêu mời trao tặng. Trong việc lựa chọn này, lý do căn bản luôn luôn được gợi hứng từ tình yêu.
Sau nữa, đi theo Ðức Giêsu là chấp nhận phiêu lưu, là đánh đổi cả đời mình. Người ta không biết trước điều gì sẽ xảy ra, nên Tin Mừng mời gọi những người muốn trở thành môn đệ Ðức Kitô phải sẵn sàng, phải biết dự liệu: biết sử dụng những phương tiện để đạt tới mục đích. Nếu không dự liệu trước, không những công cuộc này bị thất bại, nhưng còn phá huỷ cả điều đã lôi cuốn, đã hấp dẫn, đã mời gọi con người bước theo. Ở đây, điều đáng nhấn mạnh là cần phải đạt tới Nước Trời. Ðức Giêsu đã báo trước điều này: Người không có ý làm những người nghe nản lòng, nhưng muốn họ nhận định rõ ràng về tầm mức của công việc. Họ phải đánh đổi tất cả để được tất cả, phải đem tất cả của cải và sức lực của mình vào cuộc, phải chấp nhận những hy sinh lớn lao, bởi vì ơn cứu độ là một cuộc phiêu lưu mà không có gì so sánh nỗi.
Niềm vui tiến về phía trước
Năm 1992, cả thế giới hân hoan mừng kỷ niệm 500 năm khám phá ra Châu Mỹ. Ðể có được thành công này, Christophe Colomb đã đem toàn bộ gia tài của mình ra để thực hiện chuyến đi, đồng thời phải lấy uy tín và ảnh hưởng của mình để thuyết phục nhà vua. Cuối cùng sự liều lĩnh và gan dạ của ông đã đem lại kết quả tuyệt vời: khám phá ra Tân thế giới.
Người môn đệ đi theo Ðức Giêsu cũng phải liều lĩnh và gan dạ. Họ chấp nhận phiêu lưu với Ðức Giêsu, chấp nhận chương trình của Người, đồng thời sẵn sàng và vui vẻ mang lấy thập giá của mình. Họ tin tưởng vì những nỗ lực của họ không uổng phí. Họ vui vẻ bước đi vì biết rằng những gian truân hiện tại không đáng kể gì so với tương lại rực rỡ ở phía trước. Ðây là nét đặc trưng của Kitô giáo, trong đó có dấu ấn của nhà nghệ sĩ đồng thời là một người khám phá. Không gò bó, không an phận ; họ sẵn sàng bỏ lại đàng sau tất cả những gì đã có để lao mình về phía trước, và đó là niềm vui, niềm vui của sự từ bỏ, niềm vui của những đỉnh cao mới.
Nước Thiên Chúa vẫn ở phía trước, vẫn có một khoảng cách vô tận, nhưng đồng thời vẫn trong tầm tay.
35. Từ Bỏ_ Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một câu chuyện kể rằng: Một vị linh sư Ấn giáo nổi tiếng kia đang ngồi tĩnh niệm bên bờ sông, thì một người đàn ông giàu có đến xin làm môn sinh. Ông rón rén đến bên vị linh sư và đặt dưới chân nhà tu hành hai viên ngọc quý giá để làm của lễ ra mắt. Vị linh sư mở mắt ra nhưng không tỏ lộ một thái độ nào, không cần nhìn kỹ vào món quà quý giá ấy, ông cầm lấy một viên ngọc và ném xuống sông. Vì tiếc của, người đàn ông liền lặn xuống sông để tìm lại viên ngọc. Nhưng mất suốt một ngày mà ông không tìm lại được. Chiều đến, mệt mỏi và chán chường, ông mon men đến bên vị linh sư và nài nỉ: “Ngài đã ném viên ngọc xuống chỗ nào xin ngài chỉ cho tôi để tôi lặn xuống tìm lại ?”. Không nói gì, vị linh sư cầm lấy viên ngọc còn lại ném xuống sông và nói: “Đó, ta đã ném vào chỗ đó, ngươi hãy lặn xuống mà tìm lại”. Cử chỉ của vị linh sư Ấn giáo trên đây cho biết một đòi hỏi gay gắt đối với những ai muốn xuất gia tu hành, đó là họ phải từ bỏ tất cả.
Chúa Giêsu cũng đòi hỏi một sự từ bỏ như thế: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ tôi được”. Nhiều người cho rằng Chúa Giêsu nói những lời trên là chỉ nói với các môn đệ ngày xưa hay với những linh mục và tu sĩ ngày nay. Không phải thế, chắc chắn Chúa không có ý nói đến những người đi tu mà thôi, nhưng nói với tất cả mọi người. Thực vậy, những điều Chúa nói trên đây có thể hiểu theo hai nghĩa: nghĩa đen, nghĩa chặt áp dụng cho những người đi tu, và nghĩa bóng, nghĩa rộng áp dụng cho mọi người.
Nếu hiểu theo nghĩa đen, nghĩa là hiểu theo sát nghĩa từng chữ, thì đây là điều kiện Chúa đòi hỏi những người theo Chúa và thực sự những ngừơi đi tu đã thực hiện, đã sống theo những lời Chúa nói. Trong cuộc đời của các thánh, chúng ta thấy nhiều vị đã hiểu lời Chúa theo nghĩa đen, có những vị đã bán hết gia tài bố thí cho người nghèo; có những vị đã bỏ hết danh vọng, chức quyền; có những vị đã bỏ hết tiền bạc của cải để theo Chúa; có những vị đã bước qua con cái để ra đi dâng hiến cuộc đời cho Chúa, hay chấp nhận cha mẹ từ bỏ mình để được đi tu; cũng có những vị tự cắt tóc, rạch mặt để được thong dong theo Chúa.
Chẳng hạn thánh Phan-xi-cô Át-si. Truyện kể rằng khi còn là một thanh niên lêu lổng, Phan-xi-cô thường hay đi lễ trễ Chúa nhật. Có một lần khi vừa đến cửa nhà thờ, thì vị chủ tế đang đọc bài Tin Mừng, Phan-xi-cô nghe rõ được câu: “Nếu con muốn nên hoàn thiện thì hãy về bán hết gia sản, bố thí cho kẻ nghèo, rồi đến đây theo Ta”. Phan-xi-cô xác tín lời ấy Chúa nói với chính mình, anh trở về và thực hành đúng như lời Chúa, tơ lụa, vải vóc trong cửa hàng bề thế của gia đình anh đem phân phát cho người nghèo rồi đi theo Chúa và trung thành với sự nghèo khó suốt đời, nên chúng ta thường gọi là thánh Phan-xi-cô khó nghèo.
Trường hợp của thánh Béc-na cũng rất hay. Khi đến tuổi trưởng thành, ngài sớm nhận ra rằng: khó mà được rỗi linh hồn nếu sống ở thế gian, nên ngài đã quyết định từ bỏ, ngài xin đi tu và còn kéo theo bốn người em nữa. Trước khi lên đường, năm anh em đã nói với người em út, tên là Ni-va: “Vĩnh biệt em Ni-va, các anh đi đây, các anh để lại tất cả đất đai, nhà cửa và của cải cho em”. Ni-va trả lời: “Các anh khôn thấy mồ, các anh chọn trời và để lại đất cho em, em không bằng lòng đâu”. Vì thế, sau này Ni-va cũng theo các anh vào tu viện, từ bỏ đất để chọn trời, từ bỏ thế gian để chọn nước trời.
Những trường hợp trên và nhiều trường hợp khác là những cử chỉ anh hùng, nhưng không phải là luật chung cho mọi người. Dầu sao những người đi tu, chúng ta thấy cũng hiểu được theo nghĩa đen lời Chúa nói: bỏ cha mẹ, gia đình, anh chị em để nhận nhà dòng làm gia đình và nhận những người cùng chí hướng làm anh em, chị em, hoàn toàn sống theo tinh thần từ bỏ bằng ba lời khấn vâng lời, khó nghèo và khiết tịnh.
Tuy nhiên, nếu hiểu điều kiện từ bỏ theo nghĩa rộng là Chúa nói với mọi người, thì điều đó có nghĩa là phải ưu tiên dành cho Chúa và làm mọi việc để phụng sự Chúa mà thôi, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như danh vọng và của cải trần gian. Đây là một đòi hỏi có tính cách khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: dụ ngôn người muốn xây tháp hay xây nhà và dụ ngôn ông vua hay ông tướng sắp lâm trận: phải biết lượng sức mình, phải biết đánh giá đúng khả năng của mình, tức là phải tính toán cẩn thận để khỏi hỏng việc, thiệt hại hay thất bại.
Nói rõ hơn, đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, nghề nghiệp để đi tu, nhưng Chúa đòi hỏi phải biết từ bỏ những gì cản bước chân chúng ta đi theo Chúa, những gì làm chúng ta xa Chúa, mất sự bình an, nhất là mất Chúa, mất hạnh phúc nước trời.
Tóm lại, không thể làm môn đệ Chúa nếu không dám dứt bỏ, mà lám sao dứt bỏ được nếu không có tình yêu, nên điều kiện theo Chúa là phải có một tình yêu lớn mạnh. Có tình yêu chúng ta sẽ làm được tất cả, và dứt bỏ vì yêu, chúng ta sẽ thấy nhẹ hơn và dễ hơn. Nói khác đi, từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu, khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả. Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Theo sự tính toán của người đời, thì mỗi khi chúng ta theo đuổi một con người, một công việc hay một chế độ nào, thì chúng ta phải thu lại được những lợi lộc vật chất hay những địa vị danh giá. Đó là điều hết sức bình thường và hợp lý. Chính mười hai môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu cũng đã có một tâm trạng như vậy.
Chẳng thế mà có lần các ông đã không biết sượng sùng khi đặt thẳng câu hỏi này với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con đã bỏ hết mọi sự để theo Thầy, vậy thì chúng con sẽ được lại những chi?”. Các ông cũng đã từng tranh cãi xem ai trong các ông là người quan trọng nhất trong cái triều đình của Chúa. Các ông cũng đã từng bực dọc ghen tức khi thấy mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin Chúa dành cho hai con mình những chỗ ngon nhất, đó là được ngồi bên tả và bên hữu Chúa.
Đứng trước quan niệm thông thường ấy của các môn đệ, của những người theo Chúa, Ngài đã có một lập trường khác hẳn, vừa khó nghe lại vừa khó hiểu. Ngài nói: Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai yêu con trai, con gái hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ giữ lấy được. Lần khác Chúa cũng nói: Ai là người nhỏ nhất trong anh em thì kẻ ấy sẽ là người lớn nhất. Và Ngài cũng đã khuyên nhủ các môn đệ: Vương giả trần gian thì làm chúa thiên hạ và những ai cầm quyền thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con thì đừng làm như thế, trái lại ai lớn nhất trong các con thì phải trở nên người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu thì phải hầu hạ mọi người. Thầy sống giữa các con như một kẻ tôi tớ.
Những lời mời gọi chói tai này đã làm cho không ít người phải khó chịu, nhưng đồng thời cũng những lời tuyên bố ngược đời này vẫn không ngừng lôi cuốn biêt bao người dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, không biết đâu là giới hạn. Nếu Đức Kitô chỉ là một con người bình thường, hoặc giả là một bậc vĩ nhân đi nữa, mà nếu Ngài chỉ nói suông như thế thì cũng chẳng mấy ai tin. Nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa và lời Ngài có được cái giá trị siêu việt. Hơn nữa, chính Ngài đã lấy cả cuộc sống và cái chết để minh chứng lời Ngài là sự thật. Còn chúng ta thì sao? Trước lời mời gọi của Chúa, chúng ta có dám sống tinh thần từ bỏ và chấp nhận mọi hy sinh để bước theo Chúa hay không?
Khi ngắm đàng thánh giá, giữa mỗi chặng chúng ta thường đọc:
- Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô. Vì Chúa đã dùng thánh giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.
Và hôm nay, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu cũng bảo:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta.
Điều Chúa muốn là mỗi người hãy ngồi lại để nhận rõ đâu là thập giá của mình để vác theo Chúa, để không còn than thân trách phận, để không còn trốn chạy và bỏ cuộc.
Nói thế chúng ta cứ tưởng là một điều gì xa vời nhưng trái lại, đó là một điều thật gần gũi, bởi vì trong chương trình cứu độ, Chúa bao giờ cũng để thập giá vừa tầm tay mỗi người. Chu toàn bổn của mình hằng ngày đó chính là cây thập giá đời thường mà mỗi người phải trung thành vác cho đến cùng, mặc dù nhiều khi cũng cực nhọc, vô vị và đơn điệu lắm.
Dầu muốn dầu không, một khi đã sống trên cõi đời này, chúng ta vẫn phải kề vai vác lấy thập giá của mình. Chi bằng hãy can đảm vác lấy với Chúa và theo Chúa, lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy được bình an trong tâm hồn, và tìm thấy được những giá trị cao cả hơn.
Người ta hỏi một anh đạp xích lô như thế này:
- Anh đạp xích lô để làm gì?
- Tôi đạp xích lô để kiếm tiền.
- Vậy anh kiếm tiền để làm gì?
- Tôi kiếm tiền để mua gạo ăn?
- Mua gạo ăn để làm gì?
- Để đạp xích lô.
Và chúng ta gọi đó là một chiếc vòng luẩn quẩn. Phải, cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu không cố gắng vươn lên, chúng ta cũng sẽ mãi mãi ở trong chiếc vòng luẩn quẩn ấy. Tuy nhiên đối với chúng ta thì không phải chỉ có vậy, bởi vì chúng ta phải vươn lên tới những giá trị siêu nhiên. Thực vậy, nếu chúng ta đạp xích lô để chu toàn bổn phận Chúa trao phó là lo lắng cho cuộc sống của mình và của gia đình, như lòng Chúa mong ước, nói cách khác, nếu chúng ta biết làm những công việc nhỏ bé tầm thường ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì đó là chúng ta đang vác thập giá mình với Chúa và theo Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể nói cuộc đời chúng ta chồng chất những thập giá bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau chẳng hạn như bệnh hoạn tật nguyền, chết chóc tang tóc... đều là một thập giá. Tuy nhiên, cùng với Chúa chúng ta sẽ không thất vọng chán nản, trái lại chúng ta sẽ vui mừng và phấn khởi, bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau sẽ là một sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta và làm cho tấm vải cuộc đời ấy thực sự có một giá trị siêu nhiên cao quý trước mặt Chúa.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không đi vào ngõ cụt vô nghĩa, sẽ không đi vào sự chết, nhưng sẽ tiến đến vinh quang phục sinh muôn đời với Chúa.
Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.
Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.
Làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.
Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.
Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Làm môn đệ là gì?
2. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
3. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt Tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con. Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Đức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Đức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Đức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Đức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pizza.
Điều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Điều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của bạn, từ bỏ điều gì là khó hơn cả? Bạn hãy cho biết lý do tại sao.
Có lần bạn đã rất vui khi làm một hy sinh, và bạn cảm thấy mình nhận nhiều hơn cho, được nhiều hơn mất. Bạn hãy kể lại.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.
39. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐI THEO LÀM MÔN ĐỆ ĐỨC GIÊ-SU _ LM ĐAN VINH - HHTM
I. HỌC LỜI CHÚA
1. TIN MỪNG: Lc 14,25-33
(25) Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su. Người quay lại bảo họ: (26) “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. (27) Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được. (28) Quả thế, ai trong anh em muốn xây một cây tháp, mà trước tiên lại không ngồi xuống tính toán phí tổn, xem mình có đủ để hoàn thành không? (29) Kẻo lỡ ra, đặt móng rồi mà không có khả năng làm xong, thì mọi người thấy vậy sẽ lên tiếng chê cười mà bảo: (30) “Anh ta đã khởi công xây mà chẳng có sức làm cho xong việc”. (31) Hoặc có vua nào đi giao chiến với một vua khác, mà trước tiên lại không ngồi xuống, bàn tính xem mình có thể đem một vạn quân ra đương đầu với đối phương dẫn hai vạn quân tiến đánh mình chăng ? (32) Nếu không đủ sức, thì khi đối phương còn ở xa, ắt nhà vua đã phải sai sứ đi cầu hòa. (33) Cũng vậy, ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
2. Ý CHÍNH: Bấy giờ có đông người đi theo Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Nhưng họ lại tưởng Người sắp đi lãnh đạo cuộc cách mạng chống lại đế quốc Rôma giành độc lập theo chủ nghĩa Thiên Sai Do thái. Để đám đông khỏi bị ảo tưởng về sứ vụ cứu thế của mình, Đức Giê-su đã dạy họ ba điều kiện để có thể đi theo làm môn đệ cua Người: Một là họ phải yêu mến Người trên cả tình cảm gia đình ruột thịt và mạng sống của mình. Hai là họ phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng và vác thập giá mình mà đi theo Người. Ba là họ phải khôn ngoan suy tính kỹ trước khi quyết định theo Người giống như một người sắp xây tháp cao hay như một ông vua sắp đem quân đi giao chiến với quân thù.
3. CHÚ THÍCH:
- C 25-27: + Có rất đông người cùng đi đường với Đức Giê-su : Cuộc hành trình của Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem (x. Lc 9,51) trùng hợp với cuộc hành hương của người Do thái lên dự lễ Vượt Qua tại Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Vì thế có nhiều người cùng đi với Đức Giê-su làm thành một đám người rất đông.+ “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con”...: Tiếng Do thái không có lối văn so sánh. Do đó, khi muốn diễn tả ý hơn kém, người ta thường dùng lối văn song đối như “yêu” đối với “ghét” hay “từ bỏ”. Như vậy “từ bỏ” cha mẹ... chỉ có nghĩa là “yêu ít hơn”. Chính Mát-thêu đã hiểu như thế khi viết: “Ai yêu cha hay yêu mẹ hơn Thầy thì không xứng với Thầy”... (Mt 10,37). Do đó khi nghe Đức Giê-su dùng kiểu nói có vẻ cứng rắn như “từ bỏ cha mẹ”, chúng ta sẽ không nghĩ rằng Người loại bỏ giới răn thứ tư là “Thảo kính cha mẹ” (x. Lc 18,20). Ở đây, Người đòi những ai muốn làm môn đệ phải dành mọi sự quý giá nhất cho Người. + “Ai không vác thập giá mình mà theo Thầy, thì không xứng với Thầy":Những ai muốn theo Đức Giê-su thì phải vác thập giá mình mà theo Người. Thập giá hôm nay là những hy sinh và từ bỏ mà người tín hữu phải chấp nhận khi bước theo Chúa.
- C 28-30: + Ai trong anh em muốn xây một cây tháp...: Đây là một ví dụ cho thấy cần suy nghĩ kỹ trước khi làm một việc quan trọng. Chỉ những ai bền chí, có suy trước tính sau và không nản lòng thối chí mới có thể theo làm môn đệ của Người.
- C 31-33: + Hoặc có vua nào...: Cũng như việc quyết định giao chiến của một ông vua cần cân nhắc thận trọng thế nào, thì việc đi theo Đức Giê-su cũng cần phải được suy tính kỹ càng trước khi quyết định như vậy. + Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được:Đây là lần thứ hai Đức Giê-su nhắc đến sự từ bỏ của cải như điều kiện để trở thành môn đệ của Người.
4. CÂU HỎI:
1) Khi đòi những ai muốn làm môn đệ của mình phải dứt bỏ tình cảm gia đình hoặc từ bỏ cả mạng sống của mình, phải chăng Đức Giê-su đã phế bỏ điều răn thứ tư dạy “con cái phải thảo kính cha mẹ” ?
2) Đức Giê-su đòi môn đệ phải vác thập giá mình mà theo Người. Vậy thập giá ám chỉ điều gì ?
3) Đức Giê-su đã nêu ra hai dụ ngôn nào để dạy môn đệ phải cân nhắc kỹ càng trước khi quyết định theo Người ?
4) Câu nào cho thấy Đức Giê-su đòi môn đệ phải từ bỏ ngay cả những của cải vật chất nữa ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi” (Lc 14,26):
2. CÂU CHUYỆN:
1) LÒNG HY SINH TẬN TỤY CỦA MỘT BỀ TÔI TRUNG THÀNH:
Giới Tử Thôi người nước Tần, đời Xuân Thu Chiến Quốc, là bầy tôi trung thành của công tử Trùng Nhĩ. Khi công tử Trùng Nhĩ phải lưu vong nơi đất khách quê người, lương thực đã cạn kiệt, công tử lại không thể ăn những loại rau hoang cỏ dại trong rừng. Giới Tử Thôi đã lén cắt thịt đùi của mình nấu canh cho Trùng Nhĩ ăn. Về sau Trùng Nhĩ khôi phục lại nghiệp cả, làm vua nước Tần, Giới Tử Thôi xin về làng ở ẩn, chứ không hề kể công lênh ngày xưa.
Trùng Nhĩ dù sau đó có làm vua thì cũng chỉ là vua trần gian, mà Giới Từ Thôi còn dám bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chịu khổ cực để theo hầu, hơn nữa còn hy sinh cả thân mình để trung thành với chủ, thì Chúa Giê-su chính là Vua Thiên Sai, Đấng đã yêu thương chúng ta đến nỗi sẵn lòng chịu chết để cứu độ chúng ta, lẽ nào chúng ta lại không dám hy sinh từ bỏ mọi sự và cả mạng sống mình để đi theo làm môn đệ của Người ?
2) LÒNG HY SINH PHỤC VỤ ĐẤT NƯỚC CỦA NEN-SƠN MĂNG-ĐE-LA:
NEN-SƠN MĂNG-ĐE-LA (Nelson Mandela), một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Một thương gia kia, qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Măng-đe-la: "Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn sẽ không còn muốn điều gì khác trên đời". Nếu Măng-đe-la làm theo lời khuyên đó, ông có thể đã làm nhiều điều tốt cho bản thân. May mắn thay cho nước Nam Phi, thay vì lo cho bản thân, Măng-đe-la đã cống hiến cả cuộc đời mình để phục vụ đất nước.
Để làm điều đó, Nen-sơn đã phải hy sinh, ông viết: "Đối với tôi, không phải dễ dàng gì khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày tươi đẹp. Sau một ngày làm việc ở văn phòng, tôi có thể quay về với gia đình trong bữa ăn tối, thay vì bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những bất trắc như có thể bị bắt giữ. Nen-sơn bị bắt và bị 27 năm tù đày vì lòng yêu nước. Ông đã trở thành vị tổng thống vĩ đại của nước Nam Phi.
3) TÔI LÀ THỨ BA:
GHÊN SÊ-Ơ (Gale Sayers), một cầu thủ chơi ở hàng hậu vệ của đội banh CHI-KÊ-GÔ BE-Ơ (Chicago Bears) vào thập niên 1960, được đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh nhất trong làng bóng đá chuyên nghiệp Hoa kỳ. Chung quanh cổ của cậu lúc nào cũng đeo lủng lẳng một chiếc mề đay bằng vàng, trên có khắc ba chữ “I am Third” nghĩa là “Tôi là thứ Ba”. Khi được hỏi lý do, anh đã cho biết như sau: “Chúa là thứ Nhất, tha nhân là thứ Hai, và tôi là thứ Ba”. Trong quyển tự thuật đời của mình, Ghên viết: “Tôi cố gắng sống câu nói ghi trên tấm mề đay của tôi. Không hẳn lúc nào tôi cũng sống được như vậy. Nhưng dù sao việc đeo câu ấy cũng giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa”(Theo Mark Link SJ).
4) MƯỜI NĂM LÀM VIỆC VẤT VẢ ĐỂ TRẢ GIÁ CHO ƯỚC MƠ ĐƯỢC ĐỔI ĐỜI:
AN-TOAN-NÉT (Antoinette) là một cô gái rất đẹp nhưng rất nghèo. Điều mơ ước duy nhất của cô là trở thành giàu có, và cô nghĩ rằng cách dễ nhất là lấy được một người chồng giàu. Nhưng rủi thay khi cô lấy chồng thì người chồng của cô cũng chỉ là một kẻ thường dân. Thất vọng và chán nản, cô chẳng còn thiết làm gì nữa, cũng chẳng muốn đi đâu hết. Một hôm, An-toan-nét nhận được thiệp mời đến dự một bữa tiệc gồm toàn những người quý phái. Cô mừng lắm. Nhưng cô không có y phục và nữ trang sang trọng. Tuy nhiên cô biết cách thu xếp : cô rút hết tiền tiết kiệm ra mua được một bộ áo đẹp ; cô đến với Ma-ry một bạn học cũ mượn được một chiếc vòng nạm kim cương.
Thế là An-toan-nét xuất hiện trong bữa tiệc với một dáng vẻ rất xinh đẹp và sang trọng. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về cô. Cô rất sung sướng. Tuy nhiên khi tiệc tàn, trở về nhà, cô hoảng hốt khi biết chiếc vòng nạm kim cương đã bị rơi từ lúc nào mà cô cũng không hay. Tìm tới tìm lui nhiều lần mà vẫn không thấy. Chẳng còn cách nào khác, cô đành phải đi vay 40 ngàn quan với lãi xuất cao để ra tiệm kim hoàng mua một chiếc vòng y như thế trả lại cho Ma-ry. Vì hai chiếc vòng rất giống nhau nên cô bạn Ma-ry không thắc mắc gì cả. Từ đó trở đi, An-toan-nét phải làm đủ mọi việc để kiếm tiền trả nợ. Mãi 10 năm sau, cô mới trả xong nợ. Nhưng khi đó trông cô già đi và không còn vẻ đẹp như ngày xưa nữa.
Một hôm hai cô An-toan-nét và Ma-ry tình cờ gặp nhau :
- Ồ kỳ này sao bạn lại già đi và tiều tụy như thế ? Ma-rygiật mình hỏi.
- Tất cả chỉ tại bạn đó.
- Sao lại tại tôi ?
An-toan-nét kể rõ đầu đuôi sự việc. Nghe xong Ma-ry nói :
- Trời ơi tội nghiệp cho bạn quá. Chiếc vòng nạm kim cương của tôi cho bạn mượn là đồ giả. Giá chỉ có 400 quan thôi.
Thế là An-toan-nét đã được Mary trả lại 39.600 quan. Cô đột nhiên trở thành một người giàu có. Nhưng cô đã phải trả giá bằng 10 năm làm quần quật đủ mọi thứ việc cùng một thân xác tiều tuỵ và một bộ mặt già nua. Nếu An-toan-nét đã biết bằng lòng với số phận và chịu khó làm việc ngay từ đầu thì cô đã không phải trả giá quá đắt như vậy !
5) SẴN SÀNG HY SINH MỌI SỰ ĐỂ PHỤNG SỰ CHÚA:
Ô-ĐÉT (Odette) là một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở về. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho lãnh chúa Si-mon ở một lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con cái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vèn màn nhìn qua cửa sồ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đàu. Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Ô-ĐÉT có muốn nhận Si-mon là chồng theo luật Giáo Hội không? Cô đã dõng dạc tuyên bố “Con không nhận lãnh chúa Si-mon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng cho Chúa Ki-tô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Ki-tô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô. Ô-ĐÉT đang gục đầu trên vũng máu. Ông đau đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Ô-ĐÉT. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm làm biến dạng chiếc mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không ai còn cấm cản con đi theo Chúa Ki-tô nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được bề trên cho nhập vào tu viện. Ba năm sau khi khấn trọn, nữ tu Ô-ĐÉT được chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.
3. SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay, có hai cụm từ cần phân biệt là "đi theo" và "làm môn đệ": "Khi ấy có rất đông người đi theo Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ... thì không thể làm môn đệ tôi. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi thì không thể làm môn đệ tôi"... Qua đó cho thấy: rất đông người "đi theo" Chúa nhưng không phải tất cả bọn họ đều là "môn đệ" của Người.
1) Điều kiện để trở thành môn đệ Đức Giê-su? :
a- Một là phải có tinh thần siêu thoát từ bỏ: Mọi thành quả ở trần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắng mới có thể đạt thành mỹ mãn: Chẳng hạn: một lực sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội Ôlympic, phải hy sinh tập luyện ngày đêm trong thời gian dài mới hy vọng chiếm được huy chương danh dự. Một người mẫu muốn có thân hình thon gọn, với ba vòng chuẩn, đòi phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục hằng ngày… Chỉ cần lơ là một chút là thân hình sẽ mất đi vẻ thẩm mỹ ngay. Cũng thế, một sinh viên muốn thi đậu và đậu thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn trở thành bác sĩ, luật sư… cũng phải trải qua bao năm dùi mài kinh sử. Ngoài ra, những người bệnh cao huyết áp do có nhiều chất Cholesterol trong máu hay bị bệnh thừa cân béo phì… cũng phải theo chế độ ăn kiêng vất vả trong một thời gian dài mới có thể giảm cân và tránh bị đột quỵ. Còn các tín hữu chúng ta: Nếu muốn trở thành những người môn đệ của Chúa Giê-su và hy vọng sau này được về trời hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, đòi chúng ta phải hy sinh từ bỏ theo lời dạy của Chúa Giê-su: “Ai đến với tôi mà không ghét bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được”.
Ghét bỏ trong câu nói của Đức Giê-su nghĩa là gì? : Vì tiếng Do thái không có thể văn so sánh hơn kém, nên người Do thái thường dùng lối văn song đối như: "yêu và ghét bỏ". Ghét bỏ chỉ có nghĩa là yêu ít hơn. Câu này tương đương với câu Chúa nói trong Tin Mừng Mat-thêu như sau: "Ai yêu cha mẹ hơn Thầy thì không xứng đáng với Thầy" (Mt 10,37). Qua đó, Đức Giê-su đòi những ai muốn làm môn đệ của Người phải tôn Người lên hàng đầu, trên cả tình yêu dành cho người thân như: cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và trên cả mạng sống mình nữa. khi cần phải chọn một trong hai thì người môn đệ phải ưu tiên chọn Đức Giê-su.
b- Hai là phải vác thập giá mình mà theo Đức Giê-su: Thập giá ở đây được ví như một cây gậy đi đường rất hữu ích cho một vận động viên leo núi: Vì nếu không có cây gậy dò đường và chống đỡ thì họ sẽ dễ dàng bị mệt mỏi, chán nản bỏ cuộc nửa chừng và có thể còn bị tai nạn rơi xuống vực thẳm nữa. Nhờ biết bỏ đi những rào cản, người môn đệ mới dễ dàng vác thập giá mình mà theo Đức Giê-su.
Người tín hữu cần biết chấp nhận thập giá là các thử thách gặp phải như: Bị kẻ gian giật điện thoại, cướp xe cộ… chúng ta sẽ không quá buồn phiền. Hoặc khi có cha mẹ, vợ chồng hay người thân qua đời… Chúng ta cũng không quá đau buồn buông xuôi mọi sự. Khi làm ăn thua lỗ, thi rớt đại học, bị người yêu bỏ rơi… chúng ta cần bình tĩnh đón nhận, vác thập giá đó để nên môn đệ Đức Giê-su.
c- Ba là phải khôn ngoan và kiên trì theo Chúa đến cùng: Khôn ngoansuy tính xem mình có thể đáp ứng được những đòi hỏi để theo Đức Giê-su hay không. Giống như một người muốn xây một cây tháp phải khôn ngoan suy nghĩ về khả năng tài chính của mình. Hoặc như một ông vua trước khi xuất chinh phải biết đánh giá tình hình để có quyết định phù hợp. Có thể sau khi đi theo Chúa nhiều người vẫn bị nản lòng bỏ Chúa khi găp hoàn cảnh khó khăn. Khi đó hãy nhìn gương của các tông đồ: ban đầu các ông theo Đức Giê-su là để hy vọng sẽ được chia sẻ quyền lực địa vị trong Nước Trời mà Người sắp thiết lập. Nhưng Đức Giê-su đã dần dần thanh luyện suy nghĩ của các ông. Nhưng phải đợi đến sau khi Chúa phục sinh, nhờ ơn Thánh Thần, các ông mới hiểu rõ điều kiện để đi theo làm môn đệ Chúa; và can đảm từ bỏ mọi sự. John Newton đã nói: "Những khổ sở mà đời ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nhỏ nó ra để mỗi ngày Người chỉ chất lên vai chúng ta một khúc thôi... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Thế nhưng, nhiều người lại không làm như vậy: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và cả của ngày mai. Nên họ đã không thể vác nổi !".
2) Chúng ta phải làm gì để nên môn đệ thực sự của Đức Giê-su ? :
a) Mỗi ngày phải tập từ bỏ:Có những điều xấu chúng ta phải từ bỏ như: rượu chè, ma túy, trụy lạc... Tuy nhiên cũng có những điều tốt mà chúng ta vẫn phải từ bỏ để chọn điều tốt hơn như: Bỏ nghề đang làm để làm nghề mới phù hợp với ơn gọi tu sĩ, chọn ngành học vừa hợp với khả năng lại vừa phù hợp với ơn Chúa kêu gọi... Từ bỏ thường làm ta tiếc nuối và phải có tinh thần hy sinh. Chẳng hạn: Từ bỏ chiếc giường êm ấm để thức dậy đi lễ sáng; Từ bỏ một cuốn phim hay đang xem trên Ti-vi để đọc kinh tối chung gia đình... Cuộc sống hôm nay cho chúng ta nhiều cơ hội chọn lựa. Bình thường, người ta dễ chọn cái tầm thường hơn điều cao cả; Chọn khoái lạc thấp hèn hơn là hạnh phúc vững bền; Chọn ích kỷ có lợi cho bản thân hơn chọn ích chung tập thể.
b) Phải dứt khoát chọn đi con đường hẹp:Từ bỏ chính là chọn vào Nước Trời ngang qua cửa hẹp cùng với Đức Giê-su. Đây là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ:Sự từ bỏ ở đây không phải chỉ cần làm một lần là đủ, nhưng phải không ngừng từ bỏ. Cần từ bỏ noi gương Đức Giê-su, Đấng đã từ bỏ trời cao để xuống trần gian, trở thành con loài người, tự nguyện sống nghèo khổ, sẵn sàng chịu chết đền tội thay loài người. Nhất là từ bỏ ý riêng để vâng theo ý Chúa Cha.
c) Phải quyết tâm từ bỏ thói xấu ích kỷ:Người môn đệ Đức Giê-su cần luôn sống vị tha bác ái, quên mình dấn thân phục vụ cộng đoàn, nhất là phục vụ những người nghèo khó, bệnh tật và bị bỏ rơi… Sống yêu thương là dấu hiệu của người môn đệ đích thực của Đức Giê-su như Người đã nói: “Người ta cứ dấu này mà nhận biết chúng con là môn đệ Thầy, là chúng con yêu thương nhau” (Ga 13,35).
4. THẢO LUẬN:
1) Nếu phải từ bỏ tất cả những gì đang có như tiền bạc, địa vị, đam mê... để thành môn đệ Đức Giê-su, thì theo bạn, từ bỏ điều nào khó nhất ?
2) Khi người yêu thù ghét đạo công giáo, không muốn cử hành lễ hôn phối tại nhà thờ thì bạn sẽ làm gì?
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giê-su. Chúa đã nhiều lần dạy chúng con rằng: Muốn trở thành môn đệ của Chúa thì chúng con phải từ bỏ ý riêng và vác thập giá là chu toàn việc bổn phận hằng ngày mà đi theo Chúa. Chúa ơi, đây quả thật là một điều cam go và không dễ thực hiện chút nào ! Bởi vì con cảm thấy dường như lúc nào cũng có những thập giá đè nặng trên vai con: bệnh tật, đau khổ, công việc, sự vất vả hy sinh, mất mát và thất bại... Xin giúp con sẵn sàng vác cây thập giá đời con, vì tin rằng chính Chúa cũng đang vác thập giá đi trước con và hằng ban ơn nâng đỡ, giúp con đủ sức vác thập giá đời mình đi theo Chúa đến trọn cuộc đời.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON